Thứ Năm, 25 tháng 12, 2008

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Đảng Cộng sản Việt và Nhà nước CHXHCNVN luôn thực hiện nhất quán những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần II (năm 1951) đã viết: “các dân tộc Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc”. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) cũng đã nêu nguyên tắc cơ bản về chính sách dân tộc là “đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển…” có bình đẳng thì mới thực hiện đoàn kết dân tộc; có đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát triển thì mới thực hiện bình đẳng dân tộc. Việt Nam có 54 dân tộc anh em đã và đang thực hiện sự bình đẳng và đoàn kết thống nhất vì tất cả cùng chung một tổ quốc Việt Nam. Bình đẳng giữa các dân tộc xuất phát từ quyền cơ bản của con người: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 ghi rõ: "tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo…”; “ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung…” Những lần công bố năm 1959, 1980, 1992 Hiến pháp Việt Nam đều long trọng tuyên bố quyền bình đẳng giữa các dân tộc, mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị luật pháp nghiêm cấm. Quyền bình đẳng của các dân tộc về mặt pháp lý và việc thực hiện quyền bình đẳng trên thực tế vẫn còn một khoảng cách bởi điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc không đồng đều, đó là một thực tế khách quan, chính vì vậy mới cần có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Cụ thể là các dân tộc đa số có trình độ phát triển cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc thiểu số, chậm phát triển và ngược lại. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là một hệ thống các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội giữa các dân tộc, trong đó quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp (trong đó có dân tộc Khmer).
Lịch sử nước ta đã ghi nhận những đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số (trong đó có Khmer) trong sự nghiệp đấu tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược bảo vệ tổ quốc. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã không ngại hy sinh xương máu để che chở bảo vệ cách mạng, hăng hái theo Đảng trong cuộc trường chinh kháng chiến cứu nước. Ngày nay dân tộc thiểu số vì nhiều lý do còn nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển thì các dân tộc đa số phải tương trợ giúp đỡ. Thông qua Nhà nước các dân tộc thiểu số được giúp đỡ bằng việc thực hiện chính sách dân tộc, ưu đãi đặc biệt tập trung phát hiện về con người, phương tiện để các dân tộc thiểu số vươn lên, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, tiến kịp trình độ chung của cả nước và cũng chính từ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em mà tính đoàn kết dân tộc được hình thành và phát triển ngày càng bền chặt. Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Vùng miền núi và đồng bào dân tộc ở Việt Nam có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển kinh tế nhưng do nhiều nguyên nhân mà đồng bào các dân tộc chưa khai thác được; đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như: khoáng sản, lâm nghiệp, công nghiệp, trang trại, chăn nuôi… chính vì vậy, mà Nhà nước đã đầu tư hỗ trợ, kết hợp áp dụng các cơ chế khuyến khích nhằm phát huy ý thức tự lực, tự cường, năng lực sáng tạo của đồng bào các dân tộc thiểu số để khai thác mọi thế mạnh, tiềm năng của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hội nghị TW 7 (khóa IX) về công tác dân tộc đã cụ thể nhiệm vụ phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ANQG trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, châm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiếu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất”.
Thực tế đã cho thấy, thông qua các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, chương trình 135, 134 đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc, miền núi đã có bước phát triển rõ nét. Những con đường bê tông nhựa đã xây dựng tới tận các phum sóc, giao thông phát triển tất yếu kéo theo sự phát triển nhiều mặt mà trước tiên là phục vụ đi lại của bà con, vận chuyển hàng hóa, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Những công trình thủy lợi đưa nước chủ động bơm tưới cho vùng đất cao để nâng vòng quay của đất từ 1 vụ năng suất bấp bênh lên 2, 3 vụ, năng suất, sản lượng đèu vượt lên gấp 2, 3 lần. Những công trình cung cấp nước phục vụ sinh hoạt, tạo điều kiện về vệ sinh, môi trường, bảo vệ sức khỏe của bà con dân tộc thiểu số, nhiều công trình cung cấp điện góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số với sự đa dạng phong phú của các loại hình vui chơi, giải trí và phương tiện thông tin đại chúng. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số (có dân tộc Khmer). Nhiều ngôi trường Dân tộc nội trú dạy chữ dân tộc và chữ phổ thông thu hút con em đồng bào dân tộc vào học tập và rèn luyện có học bổng của Nhà nước, giảm gánh nặng cho gia đình, người thân. Nhiều chính sách cử tuyển đưa học sinh Dân tộc thiểu số đi đào tạo các ngành học, các cấp học theo qui hoạch, bố trí cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng đồng bào dân tộc miền núi. Đã có nhiều cán bộ người dân tộc thiểu số được cơ cấu vào hệ thống chính trị Nhà nước Việt từ cơ sở đến TW. Nhiều hoạt động vui chơi giải trí, lễ hội đậm nét bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số được giữ gìn và phát huy, phục vụ cho đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc và tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em. Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc thiểu số vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, coi trọng đào tạo cán bộ dân tộc, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc. Là dân tộc Việt Nam dù sống ở Việt Nam hay ở nước ngoài chúng ta cần luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kịp thời đánh bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc (trong đó có dân tộc Khmer) để chống phá chế độ, chống phá Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
L.T.S

Không có nhận xét nào: