Thứ Năm, 23 tháng 9, 2010

Trung tướng Sơn Cang, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân 2: tặng tập cho học sinh nghèo hiếu học tại Trường Tiểu học Ngọc Biên A và Ngũ Lạc


Nhằm chuẩn bị tốt cho năm học mới 2010 - 2011, ngày 12/9/2010, Trung tướng Sơn Cang, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân 2 và đại diện đơn vị tài trợ đến thăm tặng 20.000 quyển tập cho học sinh nghèo hiếu học tại Trường Tiểu học Ngọc Biên A và Ngũ Lạc C.
Trung tướng Sơn Cang, đến thăm tặng 20.000 quyển tập cho học sinh nghèo hiếu học
Tại đây, Trung tướng Sơn Cang rất vui mừng trước những đổi thay về thành tựu kinh tế - văn hóa - xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh Trà Vinh, đặc biệt là đời sống trong vùng đồng bào dân tộc có bước chuyển biến tích cực trong năm 2010. Đồng thời, biểu dương tinh thần thi đua học tập của các học sinh nghèo trong vùng đồng bào dân tộc và động viên các em cố gắng thi đua vượt khó học giỏi, phấn đấu không bỏ học giữa chừng, phấn đấu trở thành người chủ tương lai phục vụ công cuộc xây dựng đổi mới đất nước.

Thay mặt nhà trường, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Ngọc Biên A và Ngũ Lạc C cảm động trước tấm lòng của Trung tướng Sơn Cang và các thành viên trong đoàn đã không ngại mưa gió như hôm nay đến thăm và tặng nhiều phần quà ý nghĩa, sự quan tâm của các đơn vị doanh nghiệp, các tổ chức từ thiện xã hội giúp đỡ cho học sinh hòan cảnh nghèo vươn lên trong học tập.

Dịp này, Trung tướng Sơn Cang, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân 2 tặng 20.000 quyển tập học sinh với tổng số tiền hơn 40 triệu đồng được vận động các đơn vị doanh nghiệp, các tổ chức từ thiện xã hội trong và ngoài tỉnh hỗ trợ tạo điều kiện cho các em học sinh có hòan cảnh khó khăn an tâm đến trường trong năm học 2010-2011./.
Tin, ảnh: ĐỨC THÀNH - cổng thông tin điện tử Trà Vinh

Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2010

NGƯỜI KHMER

Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 895.299 người, là dân tộc có số dân đông nhất trong các dân tộc nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở Việt Nam.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tạo dáng đồ gốm.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Cày hai trâu là một đặc trưng kỹ thuật nông nghiệp của người dân Khmer.
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển:Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội:Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Chùa và sinh hoạt Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và xã hội.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay:Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết:Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng:Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.


THEO TRANG TIN ĐIỆN TỬ ỦY BAN DÂN TỘC

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2010


5 tháng đầu năm 2010, Phòng Trưng bày văn hóa Khmer (Sóc Trăng) đón gần 3.000 lượt khách tham quan
Nguồn: Website Sóc Trăng
Cập nhật: 02/06/2010, 14:58:59

Từ đầu năm đến nay, Phòng Trưng bày văn hoá Khmer thuộc Bảo tàng tỉnh Sóc Trăng tiếp đón gần 3.000 lượt khách tham quan, du lịch đến từ các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ, Long An, Bình Thuận, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh… trong đó, có hơn 500 khách nước ngoài.
Đến với Nhà trưng bày văn hoá Khmer, khách tham quan tìm hiểu những nét văn hoá độc đáo của đồng bào Khmer Nam bộ về nhóm tượng người và muôn thú làm bằng gốc cây, bình linh cách đây hơn 200 năm; những ngôi nhà sàn, nhà ở, cùng các nông cụ như cày, bừa, trục phá đất, tất cả đều được làm bằng tre, gỗ. Các du khách còn tìm hiểu thêm loại hình nghệ thuật sân khấu Robăm và Dù kê, hình thức sân khấu này lấy múa làm ngôn ngữ chính. Các mô hình ghe Ngo, lễ cúng trăng, nghệ thuật kiến trúc, trang phục của người Khmer Nam bộ trong đời thường, lễ hội, lễ cưới… và dàn nhạc ngũ âm với 05 chất liệu khác nhau là đồng, gỗ, sắt, da và hơi.
Phòng trưng bày văn hoá Khmer tỉnh Sóc Trăng đã giới thiệu các đoàn khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước tìm hiểu và nghiên cứu những nét văn hoá truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ. Đặc biệt là nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Khmer Sóc Trăng, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
23/06/2010
Điểm báo ngày 19 đến 21 tháng 6 năm 2010
Báo Phụ nữ Việt Nam, số 74, ngày 21/6/2010
* Uỷ ban Dân tộc chúc mừng các báo, tạp chí tham gia CT 975
Nhân kỷ niệm 85 năm Ngày báo chí Cách mạng VN, ngày 18/6, UBDT đã tổ chức gặp mặt, chúc mừng các báo, tạp chí thực hiện Quyết định 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Phát biểu tại buổi gặp mặt, ông Giàng Seo Phử, Uỷ viên TƯ Đảng, Bộ trưởng – Chủ nhiệm UBDT đã đánh giá cao những đóng góp của các cơ quan báo chí trong thời gian qua, đặc biệt là dịp tổ chức Đại hội đại biểu các DTTS VN lần thứ nhất. Bộ trưởng gửi lời chúc đến các cơ quan báo chí, cơ quan phát hành báo chí phục vụ đồng bào DTTS&MN, đồng thời bày tỏ mong muốn các báo, tạp chí tiếp tục phát huy truyền thống của báo chí Cách mạng VN, đáp ứng hơn nhu cầu thông tin của đồng bào, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo ở vùng DTTS&MN
Báo Tin tức, số 132, ngày 17/6/2010
* Tạo cơ hội cho con em đồng bào DTTS du học nước ngoài
Ngày 15/6, tại Buôn Ma Thuột đã diễn ra Hội thảo giới thiệu Học bổng phát triển Ôxtrâylia (ADS). Đây là lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với CT học bổng Ôxtrâylia cho sự phát triển tại VN thực hiện hội thảo.
Ông Graham Alliband – Giám đốc cho biết, trong năm 2010, Chính phủ Ôxtrâylia sẽ dành khoảng 300 xuất học bổng (tăng gấp đôi so với trước đây) cho du học sinh VN để đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ theo 2 CT: Học bổng Phát triển Ôxtrâylia và Học bổng năng lực lãnh đạo Ôxtrâylia. CT học bổng của Chính phủ Ôxtrâylia tài trợ cho VN năm 2010 sẽ dành nhiều ưu đãi cho con em đồng bào DTTS ở Tây Nguyên hơn. Cụ thể, các ứng cử viên là người DTTS, đến từ các huyện ĐBKK... sẽ không phải đáp ứng điều kiện có ít nhất 2 năm kinh nghiệm làm việc tại VN. Ưu tiên cho các ứng cử viên làm việc liên quan đến phát triển nông thôn, nhất là làm việc tại khu vực DTTS.
Báo Thanh tra, số 71, ngày 15/6/2010
* Quảng Nam: 75% công trình nước sạch bị hư hỏng nặng
Nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường, nhất là phòng tránh các loại dịch bệnh cho người dân vùng nông thôn, miền núi, những năm qua, bằng nguồn kinh phí huy động được, Quảng Nam đã xây dựng hàng trăm công trình cấp nước sạch cho nhân dân. Song, hiện có không ít công trình thi công chất lượng kém, hoặc mới vừa cắt băng khánh thành đã bỏ hoang, gây lãng phí hàng chục tỷ đồng...
Để khắc phục tình trạng này, mới đây UBND tỉnh đã đề ra nhiều biện pháp như: Triển khai dự án xây dựng phòng thí nghiệm để phân tích chất lượng nước sau đầu tư, phân bố nguồn vốn 3,5 tỷ đồng để ưu tiên sửa chữa, nâng cấp các công trình trước đây đã bị hư hỏng... Tuy vậy, tỉnh cũng cần tăng cường công tác giám sát về kỹ thuật thi công, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ và cả chất lượng nước sinh hoạt phải đảm bnảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, bảo đảm nước sạch.Báo Nông nghiệp VN, số 120, ngày 17/6/2010
* Chỉ có 10 tỉnh cho thuê đất trồng rừng với 305.353,4 ha
Được biết, Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao Bộ KH-ĐT chủ trì tiếp tục rà soát, kiểm tra, đánh giá và báo cáo Thủ tướng về việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện các dự án nước ngoài trong lĩnh vực lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Việc rà soát kiểm tra sẽ làm rõ thêm các vấn đề liên quan.
Như vậy, đến thời điểm này Bộ NN-PTNT xin khẳng định chỉ có 10 tỉnh có DNNN được cấp giấy chứng nhận đầu tư trồng rừng với tổng diện tích 305.353,4 ha, trong đó diện tích đã cho thuê là 15.664,45 ha, diện tích liên doanh liên kết trồng rừng là 18.160 ha đúng như Bộ trưởng Cao Đức Phát đã báo cáo trước Quốc hội. Đây là số liệu đã được đối chiếu giữa 3 cơ quan (Văn phòng Quốc hội, Bộ KH-ĐT và Bộ NN-PTNT) trên cơ sở số liệu báo cáo của các địa phưong trước 31/12/2009, số liệu thống kê có được và kết quả khảo sát một số địa phương.
Chuyên đề dân tộc của Báo Đại đoàn kết, số 89, tháng 6/2010
* An Giang: Dạy nghề cho nông dân Khmer nghèo
Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm nông dân An Giang mở 25 lớp dạy nghề cho 625 nông dân Khmer nghèo 2 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên trong tỉnh. Việc dạy nghề cho nông dân Khmer nghèo thuộc đề án 25 của UBND tỉnh đã tạo việc làm cho hàng ngàn nông dân Khmer nghèo.
* Sóc Trăng: Hơn 52 tỷ đồng giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS
Sóc Trăng là tỉnh có tỷ lệ đồng bào DTTS cao nhất khu vực ĐB Sông Cửu Long với khoảng 500 ngàn người, trong đó đồng bào dân tộc Khmer chiếm hơn 350 nghìn người, còn lại là người Hoa, Chăm, Tày. Toàn tỉnh có 54/105 xã có đông đồng bào DTTS thuộc diện ĐBKK, tỷ lệ hộ đói nghèo cao trong khi hơn 80% số dân trong tỉnh sinh sống bằng nghề nông, nhiều hộ thiếu đất ở, đất sản xuất. Tổng số hộ có nhu cầu cấp đất ở trên toàn tỉnh là 2.454 hộ, tương đương với gần 10 ha; đối với đất sản xuất, có 500 hộ có nhu cầu 125 ha, tổng kinh phí thực hiện đề án là 52,454 tỷ đồng.
* Đăk Lăk: Năm 2010 xây dựng 754 nhà ở cho hộ nghèo
Sau khi hoàn thành xong giai đoạn một xây dựng 354 nhà cho hộ nghèo theo Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ, bước sang năm 2010 huyện Krông Bông tiếp tục triển khai xây dựng 754 ngôi nhà cho hộ nghèo thuộc diện được thụ hưởng chính sách ưu đãi của Chính phủ.
Đến cuối tháng 5-2010, toàn huyện đã triển khai xây dựng được 521/754 nhà. Trong đó có 197 ngôi nhà đã hoàn thành bàn giao cho các hộ nghèo đưa vào sử dụng; 324 ngôi nhà đang xây dựng, đạt trên 50% khối lượng công trình; số còn lại 233 nhà đang được các cơ sở tiến hành triển khai xong trước mùa mưa lũ năm 2010.
VỤ TUYÊN TRUYỀN

theo trang tin điện tử Ủy ban dân tộc

Thứ Năm, 8 tháng 4, 2010

Khám bệnh, tặng quà đồng bào Khmer nghèo

Nhân dịp Tết cổ truyền Chol Chnam Thmây 2010 của đồng bào Khmer, trong hai ngày 3 và 4/4, Bệnh viện 30-4 (Bộ Công an), Báo CAND kết hợp Cục An ninh Tây Nam Bộ, Công an tỉnh Trà Vinh và các “Mạnh Thường Quân” tổ chức khám bệnh, phát thuốc miễn phí và tặng quà đồng bào Khmer nghèo ở hai xã An Quảng Hữu (huyện Trà Cú) và Hùng Hòa (huyện Tiểu Cần), tỉnh Trà Vinh.

Nằm cách trung tâm Trà Vinh gần 60 km và là xã vùng sâu, vùng xa của huyện Tiểu Cần, An Quảng Hữu là xã nghèo, còn gặp rất nhiều khó khăn. Là cái nôi đấu tranh Cách mạng, sau năm 1975, An Quảng Hữu vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí Anh hùng LLVTND.

Ngay từ sáng sớm, gần 200 người dân đã có mặt tại Trạm xá của xã để được các y, bác sĩ của Bệnh viện 30-4 và Bệnh xá Công an Trà Vinh khám bệnh, phát thuốc và tặng quà. Biết trước lượng bệnh nhân đông nên đoàn bác sĩ của Bệnh viện 30-4, do Đại tá - bác sĩ Tống Mạnh Chinh dẫn đầu đã chuẩn bị nhiều trang thiết bị y tế hiện đại để khám và chẩn đoán bệnh cho bà con. Bà Thạch Thị Mướt (62 tuổi, nhà ở ấp Sóc Tro dưới, xã An Quảng Hữu), có chồng là liệt sĩ Thạch Thâm (hy sinh năm 1971), bản thân bà từng là giao liên tại địa phương. Từ khi chồng mất, bà ở vậy nuôi con và làm ruộng cho đến nay. Do cuộc sống còn khó khăn nên từ trước đến giờ bà chưa từng đi khám, điều trị bệnh.

Tặng quà đồng bào Khmer nghèo.

Trước những việc làm đầy nghĩa tình của đoàn bác sĩ, anh Lâm Văn Xinh, Chủ tịch UBND xã thay mặt cho bà con phát biểu lời cảm ơn đầy xúc động: "Mặc dù chính quyền địa phương quan tâm, nỗ lực để người dân trong xã được chăm sóc tốt về sức khỏe nhưng do điều kiện của xã còn nhiều khó khăn, việc làm của đoàn là tràn đầy ý nghĩa. Thay mặt người dân, chúng tôi xin cảm ơn đoàn đã quan tâm, tận tình giúp đỡ cho bà con nghèo trong xã. Đây là món quà ý nghĩa mà các anh gửi đến bà con nhân dịp Tết Chol Chnam Thmây 2010".

Ngày 4/4, đoàn công tác từ thiện khám bệnh tiếp tục đến với bà con nghèo ở xã Hùng Hòa, huyện Tiểu Cần. Hùng Hòa là xã Anh hùng LLVTND, có đến hơn 40% dân số là đồng bào dân tộc Khmer. Ông Thạch Mây (71 tuổi), từng là Trưởng Công an xã và giữ các chức vụ khác ở địa phương, nay đã nghỉ hưu, bị bệnh gan, được các bác sĩ khám và điều trị.

Ông Thạch Mây nói: "Tôi thay mặt cho bà con nghèo, gia đình chính sách trong xã xin cảm ơn việc làm từ thiện, đầy ý nghĩa của đoàn bác sĩ lực lượng Công an. Việc làm trên thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an đối với những người có công với cách mạng, những người nghèo bị bệnh không có điều kiện được các bác sĩ khám chữa bệnh. Bà con chúng tôi sẽ cố gắng chữa bệnh, làm ăn vươn lên thoát nghèo, góp phần phát triển xã hội ở địa phương".

Đại tá, bác sĩ Tống Mạnh Chinh, Giám đốc Bệnh viện 30-4, cho biết: "Việc khám và chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con nghèo là việc làm thường xuyên, hàng năm của Bệnh viện 30-4. Những việc làm từ thiện thể hiện tình cảm, trách nhiệm của người chiến sĩ Công an đối với bà con nghèo bị bệnh. Mỗi chuyến khám bệnh tại các địa phương, chúng tôi càng thương bà con nhiều hơn, vì có nhiều người chưa từng một lần được các bác sĩ khám bệnh. Bởi vậy, chúng tôi luôn mong muốn được tổ chức đợt khám bệnh ở các địa phương để giúp bà con nghèo có thêm nhiều cơ hội chăm sóc sức khỏe".

Thượng tá Kiên Rịnh, Phó Giám đốc Công an tỉnh Trà Vinh, nói: "Dịp Tết cổ truyền Chol Chnam Thmây của đồng bào Khmer, đoàn y, bác sĩ tổ chức để đến địa phương khám bệnh cho người nghèo là thể hiện tấm lòng của các anh đối với đồng bào. Những việc làm ấy rất ý nghĩa với địa phương Trà Vinh".

Theo Trung tá Lâm Thành Sol, Phó Cục trưởng Cục An ninh Tây Nam Bộ: "Những việc làm từ thiện của Bệnh viện 30-4, Báo CAND, Mạnh Thường Quân là hết sức ý nghĩa, đặt biệt là dịp tết của bà con. Qua việc làm ấy sẽ tạo sự đoàn kết, góp phần phát động sâu rộng các phong trào quần chúng, giữ vững ANTT ở địa phương". Theo Báo Công an nhân dân 6:32, 06/04/2010.

Chủ tịch nước chúc tết đồng bào dân tộc Khmer

(CAO) Ngày 6 - 4, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ đã tổ chức buổi họp mặt mừng Tết Chol Chnam Thmay 2010 với gần 600 cán bộ đương chức, hưu trí, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình chính sách, các vị chức sắc, các vị trong Ban quản trị các chùa Khmer tiêu biểu khu vực Nam bộ, kiều bào dân tộc Khmer đang sinh sống ở nước ngoài. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến dự và chúc Tết đồng bào Khmer.

Phát biểu tại buổi họp mặt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thay mặt Đảng, Nhà nước đã gửi lời thân ái, chúc mừng đến toàn thể đồng bào dân tộc Khmer nhân dịp tết cổ truyền Chôl Chnam Thmây. Chủ tịch nhắc nhở, đồng bào dân tộc Khmer cần tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định để xây dựng đất nước.
Đời sống đồng bào dân tộc Khmer có nhiều chuyển biến về mọi mặt. Trên 80% hộ có phương tiện nghe nhìn; phần lớn đã có xe máy; tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 40% năm 2006 xuống còn hơn 28% vào cuối năm 2009…Cũng nhân dịp này, Chủ tịch nước kêu gọi kiều bào Khmer đang sinh sống, học tập, làm việc ở nước ngoài tham gia đóng góp, đoàn kết để xây dựng đất nước.

Chủ tịch nước đánh giá cao những đóng góp của đồng bào Khmer trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Chủ tịch nước khẳng định, với truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức chấp hành tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng bào Khmer và sư sãi tích cực cùng các cấp chính quyền ra sức lao động, sáng tạo để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc để xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.
Dịp này, các đại biểu cũng nghe đại diện Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ báo cáo kết quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Qua đó, đã giúp cho đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Khmer ngày càng được nâng cao. Các Chương trình 134, 135, Quyết định 74, 167, Chính sách trợ giá trợ cước của Chính phủ đã giúp nhiều gia đình Khmer nghèo có nhà ở, đất ở, điện thắp sáng, nước sạch sinh hoạt, vốn sản xuất... Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được các cấp chính quyền quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào Khmer có việc làm, ổn định cuộc sống. Công tác giáo dục, y tế được quan tâm phát triển giúp nâng cao dân trí và khám chữa bệnh cho đồng bào Khmer.
Theo báo Công an Thứ tư, 07/04/2010 11:30

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2010

Dạy chữ Khmer trong các chùa ở Kiên Giang

Kiên Giang là một trong những tỉnh ở vùng Tây Nam Bộ có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Những năm qua, phong trào dạy chữ Khmer ở Kiên Giang phát triển mạnh, mà những ngôi chùa là trường học còn những vị sư kiêm vai trò những người thầy.

Chúng tôi về huyện Giồng Riềng, một huyện có phong trào dạy chữ Khmer phát triển mạnh trong các chùa. Theo các cán bộ làm công tác dân tộc ở huyện thì phong trào đã được duy trì hơn năm năm. Chỉ tính riêng xã Bàn Thạch - một xã có đông đồng bào dân tộc Khmer nhất huyện Giồng Riềng, hằng năm duy trì đến năm lớp với hàng trăm học sinh theo học. Ngoài những lớp dạy tiếng Khmer vỡ lòng cho các em nhỏ, năm nay một số chùa ở huyện Giồng Riềng còn tổ chức thêm từ một đến hai lớp nâng cao dành cho người lớn và các em học sinh phổ thông để các học sinh này vững vàng khi bước vào năm học mới tại các trường phổ thông dân tộc nội trú. Ðại đức Danh Nol, trụ trì chùa Giồng Ðá, xã Bàn Thạch cho biết: "Do lượng học viên ngày càng tăng cho nên ngoài việc bố trí những phòng học gần chùa như những năm trước, nay chùa Giồng Ðá đã tận dụng cả những Sa La trong chùa để làm phòng học". Do phong trào hình thành khá lâu và tổ chức đều đặn cho nên năm nay lượng học viên đến chùa Giồng Ðá theo học các lớp tiếng Khmer nâng cao cũng nhiều hơn so với những năm trước. Ngoài con em, phật tử trong vùng, chùa Giồng Ðá còn thu hút đông đảo các em ở những xã lân cận đến học tập.

Là xã có hơn 57% dân số là người dân tộc Khmer cho nên những lớp dạy chữ Khmer như thế này ở Bàn Thạch là vô cùng bổ ích và rất có ý nghĩa. Bí thư Ðảng ủy xã Bàn Thạch, huyện Giồng Riềng Lê Quang Sang cho biết: "Xã rất hoan nghênh và luôn tạo điều kiện để các lớp dạy chữ Khmer được duy trì. Xã còn khuyến khích, vận động và tạo mọi điều kiện để đội ngũ cán bộ xã, ấp, con em người dân tộc được theo học xuyên suốt và phát triển đảng viên người dân tộc nhiều hơn nữa". Ngoài việc giúp con em đồng bào Khmer được học tốt tiếng mẹ đẻ, các lớp học chữ Khmer còn giúp cho cán bộ vùng đồng bào dân tộc biết được tiếng dân tộc. Không những vậy, các lớp học còn phát huy tốt nhu cầu, phong trào học tập nâng cao kiến thức văn hóa cho toàn xã hội. Cái hay của lớp học này là người dạy học là những vị sư dạy học bằng tấm lòng không nhận thù lao, người học không phải đóng học phí. Không những vậy, nhà chùa còn lo luôn việc ăn, việc nghỉ cho những người hoàn cảnh neo đơn, ở xa nơi học tập. Sư Danh Sương, giáo viên dạy chữ tại chùa Giồng Ðá cho biết: "Sư rất thích dạy chữ của dân tộc mình và rất hạnh phúc khi người đến học luôn đông đúc".

Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa phong trào học chữ Khmer trong những vùng dân tộc, thì ngoài sự nỗ lực của các nhà chùa, chính quyền và ngành giáo dục - đào tạo cần hỗ trợ về cơ sở vật chất, chuyên môn để những lớp học này được nâng lên cả chất và lượng.

(Theo trang tin điện tử Ủy Ban dân tộc)