Thứ Năm, 9 tháng 4, 2009

Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer Nam bộ



Đồng bào Khmer vui Tết.

Trong một năm, đồng bào Khmer Nam bộ có khá nhiều lễ hội. Nhưng quan trọng nhất của họ vẫn là ba lễ hội, tuần tự như sau: Chol Chnam Thmay, Dolta và Ok Om Bok. Chol Chnam Thmay có nghĩa là “lễ chịu tuổi” hay “vào năm mới”, mà ta thường gọi là tết.

“Cũng như mọi dân tộc trồng lúa nước ở Đông Nam Á, người Khmer tồn tại nhiều lễ nghi nông nghiệp diễn ra theo chu kỳ gió mùa và chu kỳ canh tác. Người Khmer mừng tết vào giữa tháng “chết” (tức khoảng giữa tháng 4 dương lịch) ngày 13-14-15 gọi là Chol Chnam Thmay. Đây là thời điểm mùa khô kết thúc và mùa mưa sắp đến” (Toan Ánh, “Nếp cũ - Hội hè đình đám”, quyển thượng, tr.259, NXB Trẻ, 2005). Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer Nam bộ cũng giống như Tết Nguyên đán của đồng bào Kinh. Tết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Khmer Nam bộ vì nó vừa là ngày mở đầu năm mới, mở đầu thời vụ mới, cũng là ngày hạnh phúc tươi vui nhất trong năm mới. Đây còn là dịp nam nữ thanh niên trong phum sóc quen biết, tìm hiểu nhau, có thể tiến tới cuộc hôn nhân tốt đẹp trong tương lai... Cũng như Tết cổ truyền của các dân tộc khác, Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ tuy có cùng ý nghĩa, nhưng lại được tổ chức với vài tập tục khác biệt theo bản sắc văn hóa của mình. Vì là một cộng đồng dân tộc theo Phật giáo Tiểu thừa, nên mọi sinh hoạt Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer Nam bộ đều diễn ra tại chùa.

Với Chol Chnam Thmay, cũng như Dolta và Ok Om Bok, đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ thức hầu như suốt đêm trong chính điện hoặc trong sân chùa để nghe thuyết pháp, tụng kinh; để vui chơi bên nhau. Hàng quán bày các nơi trong khuôn viên chùa, là dịp để đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ giới thiệu với các bạn phương xa nền văn hóa ẩm thực độc đáo của họ. Ngoài bún nước lèo nức tiếng gần xa, còn có bánh ống được làm bằng khoai mì mài vắt ráo nước, gạo vo rút nước phơi ráo xay khô đâm nhuyễn, dừa rám nạo rồi bằm, tất cả trộn đường cát. Cho hỗn hợp này hấp chín trong hai (hoặc bốn) chiếc ống tre cách thủy trên miệng nồi đất. Bánh chín, tròn dài nổi bật trên nền lá chuối xanh tươi. Cắn nhẹ, cảm giác bánh xốp như bánh bò bông tan dần trên mặt lưỡi. Nhưng bánh dùng để cúng trong chùa của đồng bào dân tộc Khmer độc đáo hơn là bánh gừng mà họ gọi là Num-khơ-nhây. Bánh làm bằng nếp vo sạch để ráo cho vào cối đâm nhuyễn rồi sấy hoặc phơi khô. Trộn đều bột này với hột gà, bột nang mực, nước chanh tươi rồi nắn hình củ gừng. Chiên trong chảo dầu hoặc mỡ, bánh chín vớt ra lăn đều trên mâm đường cát trắng thắng sền sệt rồi đem phơi nắng là được. Bánh ăn giòn mềm, càng nhai càng nghe vị ngọt béo bùi lan trên mặt lưỡi...

Ngoài 2 loại bánh vừa nêu, để cúng chùa, người ta chuẩn bị các loại bánh mứt khác cùng đồ ăn thức uống các loại khá chu đáo, nhưng nhất thiết phải có 5 loại bánh: Nùm chruốt (bánh tét nhân mỡ), Nùm chết (bánh dừa nhân chuối), Nùm tiên (bánh ít), Nùm niềng nóc và Nùm bóc cháp (bánh bột nhân dừa). Cùng với hương đăng hoa quả, họ mang tất cả vào chùa cúng bái với mong ước mưa thuận gió hòa, gia đình an khang hạnh phúc, con cháu học hành tấn tới nên người. Bên cạnh đó người ta còn làm công quả ở chùa song song với việc tham dự các cuộc vui diễn ra tại đây. Các cuộc vui diễn ra tại sân chùa gồm: đá cầu, ném banh, kéo co, đấu khăn, rồng rắn, bịt mắt bắt dê... Nhưng phổ biến nhất là trò ném Chô chhuôn giữa hai đội nam và nữ. Đội này ném cái khăn cuộn tròn sang đội kia, vừa ném vừa hát tạo ra không khí sôi nổi, hào hứng. Ở một số tỉnh còn tổ chức hát Ta rốt. Đoàn hát đi từ nhà này sang nhà khác, phum sóc này sang phum sóc khác. Trong đoàn có một người đóng vai thợ săn, hai người giả làm hươu. Mỗi người còn lại trong đoàn cầm một chiếc gậy đầu buộc tua vải nhiều màu, vừa đi vừa gõ nhịp xuống đất vừa hát, tới đâu cũng được bà con thưởng tiền bạc hoặc quà bánh. Đáng tiếc là trò vui đậm chất văn hóa dân gian này của họ ngày nay không còn phổ biến như xưa!

Chol Chnam Thmay diễn ra trong 3 ngày: ngày đầu tiên gọi là Chol Sangkran Thmay, ngày thứ hai gọi là Wonbơt và ngày cuối cùng gọi là Lơn Săk. Trong đêm giao thừa, mọi nhà đốt đèn, thắp hương, làm lễ đưa Têvôđa năm cũ và rước Têvôđa năm mới. Theo quan niệm của người Khmer Nam bộ, họ tin rằng, Têvôđa là một vị tiên được trời sai xuống trần gian chăm lo cho dân chúng trong một năm. Hết năm đó, trời lại sai một vị khác xuống làm thay công việc chăm lo cho dân. Hiện nay, vẫn còn một số gia đình đưa con trai vào chùa kính Phật, làm lễ quy y đúng vào đêm giao thừa. Theo quan niệm của họ, đây là giờ lành tháng tốt, là giờ khắc tốt nhất trong năm, nên việc xuất gia tu hành gặp nhiều điều tốt đẹp cho bản thân người con mà còn cho cả gia đình.

Sáng sớm ngày thứ nhất, Chol Sangkran Thmay, người ta chọn một giờ tốt (thường là lúc 7 giờ sáng, 5 giờ chiều hay 12 giờ khuya, tùy theo năm) để tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, mang lễ vật, nhang đèn vào chùa làm lễ rước lịch Maha Sangkra. Một vị Acha điều khiển mọi người đứng xếp hàng rồi đi quanh chính điện, vừa đi vừa tụng kinh mừng năm mới. Ban đêm, những người lớn tuổi tụ họp trong giảng đường nghe sư thuyết pháp, còn thanh niên nam nữ thì tham gia các trò chơi dân gian, hát dù-kê, rô-băm, múa lăm-thôn... tại sân chùa.

Sáng sớm ngày thứ hai, Wonbơt, người ta dâng cơm cúng dường các nhà sư, gọi là Ween chong ham. Theo tục lệ nhà chùa, vào ngày sóc, vọng, ngày tết, lễ... các tín đồ đi chùa lạy Phật và góp phần nuôi sư sãi bằng cách mang cơm và thức ăn mời các nhà sư. Trước khi thọ bát, các sư tụng kinh cầu phúc cho những người đã đem thức ăn cúng dường, đồng thời làm động tác ban thức ăn cho những oan hồn uổng tử. Buổi chiều, tiến hành lễ đắp núi cát, gọi là Puôn phnum khsach. Đây là một tập tục lưu truyền theo sự tích về một người làm nghề săn bắn từ lúc trẻ đến già đã giết rất nhiều muông thú. Về già, ông luôn ám ảnh bởi những loài thú mà ông đã săn bắn, chúng lúc nào cũng đòi mạng ông. Nhưng nhờ ông được sư sãi hướng dẫn cách đắp núi cát để tích phước. Ông bảo các loài chim muông nếu muốn đòi nợ ông thì hãy đem đi hết những hạt cát mà ông đã đắp. Nhưng các loài muông thú bất lực, đành kéo nhau đi, từ đó ông thợ săn già cố gắng tích đức cho đến một ngày ông về với cõi Phật.

Để đắp núi cát, người ta dùng cát sạch đổ thành đống bên ngoài hành lang trước sân chùa. Theo sự hướng dẫn của các vị Acha, người ta lấy cát đắp 9 ngọn núi nhỏ gồm 8 ngọn ở 8 hướng và 1 ngọn ở chính giữa. Ngọn chính giữa tượng trưng cho trung tâm trái đất, còn lại tượng trưng cho bốn phương, tám hướng của vũ trụ. Đắp núi xong, người ta dùng tre (hoặc vật liệu khác) rào quanh 9 ngọn núi này. Tiếp theo là đến phần lễ quy y cho núi, đến ngày hôm sau thì làm lễ xuất thể. Tất cả các nghi lễ này đến ngày nay được gìn giữ gọi là Anisong Puôn Phnom khsach nghĩa là phúc duyên đắp núi cát. Tục đắp núi cát có ý nghĩa ngăn trở ma quỷ và những điều xấu, đồng thời nhắc nhở mọi người nên tích phúc để ngày một cao vời, lớn lao như núi và lan dần khắp bốn phương, tám hướng.

Ngày thứ ba, Lơn săk, tiến hành lễ tắm Phật sau khi dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư. Người ta dùng nước sạch thả vào đó những bông hoa có mùi thơm, rồi dùng những nhánh hoa nhúng vào vẩy lên tượng Phật, sau đó tắm cho các vị sư cao niên, các ngôi tháp đựng hài cốt các nhà sư đã viên tịch, các nghĩa trang... Đây là một nghi lễ rất quan trọng với đồng bào Khmer Nam bộ vì họ tin rằng sẽ được Phật tha thứ cho những lỗi lầm thiếu sót trong năm cũ, gọi là lễ Kha ma tôs, giống lễ sám hối của Phật giáo Đại thừa; ban nhiều sức khỏe, làm ăn trúng mùa, ý nguyện được thành, xóm làng yên ổn, tai qua nạn khỏi... trong năm mới.

Đặc biệt, đồng bào Khmer ở Bạc Liêu cũng có lễ Thanh minh, gọi là Băng skôil. Trước Chol Chnam Thmay, bà con dọn dẹp, sơn phết tháp thờ hài cốt ông bà, cha mẹ mình cho gọn gàng, đẹp đẽ. Sau đó, nhờ nhà sư làm lễ cầu cho linh hồn ông bà tổ tiên mình được siêu sanh miền Tịnh độ. Đây cũng là dịp họ nhờ các sư tụng kinh siêu thoát cho những tháp mộ không người thân chăm sóc. Lễ viếng mộ kết thúc, họ trở về nhà tắm tượng Phật thờ trong gia đình. Tiếp đó, con cháu đem bánh mứt trà rượu mời ông bà, cha mẹ dùng cùng những lời chúc mừng năm mới tràn đầy sức khỏe, gặp nhiều may mắn... Nhiều chục năm trước, đây còn là dịp để họ tổ chức lễ tát nước vào người lớn tuổi lấy hên - giống như lễ Song Kra ở Thái Lan. Nhưng tập tục này đã chấm dứt từ lâu, thay vào đó là dùng nước sạch ngâm bông có mùi thơm thấm vào quần áo, đồ dùng của ông bà, cha mẹ như một lời cầu chúc may mắn đầu năm.

Chol Chnam Thmay là ngày Tết cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ, là nét văn hóa đặc sắc bên cạnh nét văn hóa đặc sắc khác của các dân tộc anh em ở nước ta, làm giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc.


Bài, ảnh: PHƯƠNG KIỀU

Không có nhận xét nào: