Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2009

Ðồng bào Khmer ở Sóc Trăng "trả sổ nghèo" đón Tết



ND - Trong khí trời se lạnh của những ngày cuối năm, chúng tôi có dịp đến thăm một số xã có đông đồng bào Khmer ở các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) và rất mừng khi thấy nhiều hộ nông dân đến trụ sở UBND xã xin được trả lại sổ hộ nghèo để đón Tết được vui vẻ.
Là huyện vùng sâu có hơn 52% số dân là đồng bào Khmer, toàn huyện có 7/9 xã, thị trấn thuộc diện đặc biệt khó khăn, Vĩnh Châu là nơi giao thông cách trở, đời sống khó khăn nhất của tỉnh Sóc Trăng. Những năm gần đây với chính sách ưu đãi của Chính phủ từ Chương trình 135, 134 và nhiều dự án đầu tư vùng đồng bào Khmer đã tạo nên những chuyển biến tích cực. Hơn 40 công trình phúc lợi phục vụ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào Khmer được xây dựng, tổng nguồn vốn gần 80 tỷ đồng.



Nông dân huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng)
thu hoạch hành tím.


Riêng để "đánh thức" vùng đất giồng cát ven biển Vĩnh Châu, rút ngắn khoảng cách đói nghèo, nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống, từ năm 2005 đến nay, Sóc Trăng đã đầu tư hàng chục tỷ đồng phối hợp với các nhà khoa học của Trường đại học Cần Thơ, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long... đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật như trồng lúa cao sản năng suất cao, nuôi tôm sú, trồng vú sữa Lò Rèn, nuôi bò lai sind... Qua những mô hình này, nhiều nông dân Khmer sản xuất giỏi đã trở thành triệu phú nông thôn. Chú Sơn Dươl, ở ấp Ðại Bái A, xã Lạc Hòa là một người trong số đó.

Hôm chúng tôi đến thăm, chú Dươl thật thà kể: "Ngày trước nghèo lắm, nhà tôi mỗi bữa ăn đều phải độn khoai. Con em chẳng đứa nào được đi học...". Tuy bị thương tật nhưng nhờ chí thú làm ăn nên năm 2005, chú được ngân hàng đầu tư 10 triệu đồng, được các nhà khoa học Trường đại học Cần Thơ, Trung tâm khuyến nông Sóc Trăng giúp đỡ cộng với nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, trở thành người tiên phong tham gia trồng lúa cao sản.Vụ lúa đầu tiên trúng mùa, trúng giá, trả xong nợ Nhà nước, chú còn đủ tiền đóng một cây nước sạch phục vụ cho sinh hoạt và tưới hành tím, củ cải trắng, dưa hấu, nhãn.

Tết này, từ nguồn lợi thu nhập lúa, hành tím, gia đình chú thu lãi hơn 20 triệu đồng. Từ nguồn vốn nghĩa tình của Nhà nước, chú đã có một cơ ngơi khá vững chắc: một căn nhà tường trông khá khang trang, hai ha đất sản xuất một vụ lúa, hai vụ màu, sáu con bò lai sind, thu nhập từ sản xuất lúa, màu, chăn nuôi bò hơn 60 triệu đồng, trừ chi phí sản xuất thực lãi gần 30 triệu đồng/năm.

Ở Vĩnh Châu, không chỉ có gia đình chú Dươl mà còn rất nhiều hộ người Khmer khác, trước đây nghèo lắm, chỉ sống nhờ vào việc mò cua bắt cá ở vùng đất ven biển để sống qua ngày, nay đã có cuộc sống khấm khá và trở thành những nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi của huyện. Chỉ riêng năm 2008, Vĩnh Châu có hơn 2.000 hộ thoát nghèo, trong đó phần lớn là hộ đồng bào Khmer. Vui hơn là có thêm hàng trăm hộ tự nguyện làm đơn xin rút khỏi danh sách hộ nghèo, nỗ lực vươn lên làm giàu mà không nhận sự ưu đãi hỗ trợ dành cho hộ nghèo.

Về xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú, chúng tôi được nghe kể nhiều về "vua lúa giống" Danh Khal ở ấp Ðai Úi. Từ một nông dân Khmer nghèo, sau gần mười năm mày mò, chịu khó học hỏi kinh nghiệm theo "nghiệp" sản xuất lúa giống, ông đã cung cấp hơn 80 tấn lúa giống mới chất lượng cao có giá trị xuất khẩu cho bà con trong huyện và các địa phương khác trong tỉnh sản xuất.

Giống lúa ghi đậm dấu ấn của ông là giống ST3 thích nghi vùng nước lợ Sóc Trăng cho năng suất từ 6 đến 6,2 tấn/ha, cao gần gấp hai lần so với các giống địa phương khác. Hiện nay "vua lúa giống" Danh Khal không chỉ nổi tiếng sản xuất lúa giống mà còn là người tiên phong ứng dụng chương trình sản xuất "ba giảm, ba tăng".

Cùng có chung khát vọng làm giàu như Danh Khal, chị Trà Thị Tựng (ấp Bưng Cốc), anh Sà Lượl (ấp Béc Tôn ) đã trả được sổ hộ nghèo cho Nhà nước. Theo lời chị Sết, năm 2004 trong chương trình hỗ trợ bò cho hộ Khmer nghèo chăn nuôi trả chậm của Nhà nước, chị và hàng trăm bà con khác được cho vay mười triệu đồng/hộ chăn nuôi hai con bò sinh sản. Qua bốn năm chăn nuôi, chị Sết đã hoàn lại nguồn vốn vay cho Nhà nước và hiện gia đình đã có đàn bò sáu con, các phương tiện sinh hoạt gia đình như xe hon-đa, ti-vi...

Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Lê Thị Thuyết đưa chúng tôi đi thăm làng nghề đan lát thủ công mỹ nghệ ở xã Tham Ðôn. Tại đây, hơn 300 phụ nữ là người Khmer đang ngồi đan khay đĩa, giỏ bẹ, thảm... bằng cây lục bình và dây chuối theo hợp đồng của Hợp tác xã TTCN Ngọc Bích. Chị Thuyết cho rằng, đây là một nghề mới được phát triển ở địa phương. Nghề này dễ làm, phù hợp với người phụ nữ, lại quán xuyến được việc nhà, quản lý nhắc nhở con cái học hành và tăng thu nhập cho gia đình.

Chị Thạch Thị Sa Ry ở ấp Bưng Chụm cho biết, ngoài việc trồng hẹ, nuôi bò sữa, chị tranh thủ lúc rảnh rỗi đan giỏ đệm xuất khẩu, trung bình mỗi tháng thu nhập khoảng 1,5 triệu đồng, cả năm được 18 triệu đồng, tính ra thu nhập từ nghề đan lát cao hơn trồng lúa nhiều. Và cũng nhờ nghề đan lát mà gia đình chị và nhiều hộ Khmer nghèo trong xóm đã thoát khỏi cảnh túng quẫn, vươn lên khá giả, mừng hơn là đã trả sổ hộ nghèo cho xã.

Trao đổi ý kiến với chúng tôi về những thành tựu kinh tế-xã hội vùng đồng bào Khmer, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Lâm Ren cho biết: Sau khi tái lập tỉnh (1992), Sóc Trăng có 54/105 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, được hưởng Chương trình 135, 134, chính sách hỗ trợ giá, trợ cước vận chuyển... Các chương trình, chính sách trên đã và đang phát huy hiệu quả.

Chỉ riêng Chương trình 135 đã xây dựng 464 công trình cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, điện nước sinh hoạt, trạm y tế, trường học, chợ... với tổng số vốn đầu tư hơn 273 tỷ đồng. Ngoài ra, 17 trung tâm thuộc xã, tỉnh cũng đã xây dựng được 72 hạng mục cơ sở hạ tầng với số vốn đầu tư gần 39 tỷ đồng. Thực hiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, đến nay tỉnh đã hỗ trợ cho hơn 282 lượt đồng bào Khmer gồm các loại giống, cây trồng, vật nuôi.

Ðể giúp đồng bào Khmer chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất, phát triển làng nghề truyền thống, năm 2008 các ngân hàng trong tỉnh đã cho vay hơn 140 tỷ đồng vốn ưu đãi cho gần 15 nghìn hộ Khmer phát triển kinh tế gia đình. Chương trình 134 tiếp tục đầu tư hơn 122 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở, đất ở, nước sinh hoạt, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho 7.032 lao động là người Khmer. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh từ 42% (năm 2005) xuống còn dưới 30% (năm 2008).

Một trong những nguyên nhân làm giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer là do Tỉnh ủy, UBND coi trọng việc lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế, đặc biệt là công tác chuyển giao và ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các mô hình lúa tôm, lúa cá, nuôi bò sữa, trồng màu... Nhờ vậy, những năm gần đây đời sống đồng bào Khmer ngày càng được cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, điều đáng mừng nhất hiện nay là ở nhiều địa phương vùng đồng bào Khmer bà con đã thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu chuyển sang phương thức sản xuất mới, hiệu quả kinh tế cao hơn. Từ đó xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương điển hình không trông chờ vào sự ưu đãi của Nhà nước để hưởng lợi, mà luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường, nỗ lực thoát cảnh đói nghèo và vươn lên làm giàu cho bản thân, gia đình.

Có được cuộc sống tốt đẹp hôm nay, đồng bào Khmer ở Sóc Trăng luôn biết ơn sự quan tâm giúp đỡ bằng những việc làm cụ thể, thiết thực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự hỗ trợ của cộng đồng. Cuộc sống mới tạo cho bà con thêm niềm tin, động lực để phấn đấu vươn lên xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc trong những ngày Xuân về, Tết đến.

Ðỗ Nam

Đến Sóc Trăng vào mùa lễ hội

Sóc Trăng là một tỉnh có cộng đồng 3 dân tộc Kinh, Khmer và Hoa sinh sống chan hòa từ nhiều thế kỷ nên có nhiều nét đặc thù về sinh hoạt văn hóa lễ hội truyền thống ở địa phương. Những hoạt động, sinh hoạt văn hóa dân gian như lễ Đôn-ta, lễ Ok- om-bok của người Khmer Nam bộ; lễ Phước Biển của người Hoa... hoặc tết Chol chnam Thmay hay Tết Nguyên đán gần như diễn ra quanh năm trên địa bàn Sóc Trăng đã trở thành những lễ hội chung của cả ba dân tộc.

Đến Sóc Trăng, du khách sẽ gặp rất nhiều ngôi chùa Khmer với những hoa văn sắc sảo, uy nghiêm và cổ kính. Trong đó, nổi tiếng nhất là chùa Mahatup (chùa Dơi), di tích lịch sử cấp quốc gia có niên đại trên bốn trăm năm. Điều đặc biệt là trong vườn chùa có hàng chục ngàn con dơi quạ tụ về, trong đó đàn dơi ngựa quý hiếm nằm trong sách đỏ thế giới, tạo nên nét độc đáo riêng cho chùa. Các ngôi chùa Đất Sét, Khleng, Bốn Mặt... đều thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Sự giao thoa của những nền văn hóa Kinh - Hoa - Khmer thể hiện qua các hình rồng đắp trên các cột chính điện ở chùa Xà-Lôn (chùa Chén Kiểu) ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên. Chín đôi cột vừa là một cách lý giải khá lý thú về sự pha trộn của các tộc người vừa tượng trưng cho 9 nhánh sông ở Đồng bằng sông Cửu Long (9 con rồng chảy ra biển Đông) của người Việt. Về ẩm thực, món “bún nước lèo” của Sóc Trăng đoạt giải nhất ẩm thực tại Liên hoan du lịch Mekong là món ăn mang đậm tính giao thoa giữa các khẩu vị mắm, ngọt bùi của trứng cá, ruột cá lóc của người Khmer, người Việt và thêm thịt heo quay của người Hoa. Sóc Trăng còn có sản phẩm du lịch nổi tiếng là lạp xưởng và bánh pía, một sản phẩm kết tinh giữa văn hóa ẩm thực của người Hoa và Khmer.

Từ khi tách tỉnh (1992) đến nay, lượng khách du lịch đến Sóc Trăng tăng từ 8%-12% hàng năm. Ước tính trong năm 2007 là có trên 500.000 lượt khách đến Sóc Trăng, trong đó khách quốc tế chiếm 20%. Hàng loạt các dự án phục vụ du lịch đang được triển khai như khu du lịch Song Phụng, tuyến du lịch hạ lưu sông Hậu, khu du lịch Hồ Bể... Riêng 2 khu du lịch sinh thái Hồ Bể và Song Phụng mỗi nơi có diện tích từ 100 ha đến 300 ha.

Trong định hướng phát triển của ngành du lịch ở Sóc Trăng hình thành 6 loại gồm du lịch văn hóa lễ hội, tham quan di tích lịch sử, vui chơi giải trí, ẩm thực, tham quan làng nghề; du lịch sinh thái sông nước, cù lao, vườn cây ăn trái; du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, nhà vườn, du lịch sông biển; du lịch làng nghề truyền thống; du lịch ven biển, rừng ngập mặn và du lịch thể thao... Hiện nay, tại thị xã Sóc Trăng số khách sạn đã tăng 4,5 lần so với năm 2000, trong đó có 20 khách sạn từ 1-3 sao với 552 phòng đạt tiêu chuẩn và công suất sử dụng bình quân trên 60%. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có thêm 6 khách sạn 3 sao đưa vào sử dụng với 820 phòng và 1.250 giường đạt chuẩn.

Trong các lễ hội, ấn tượng nhất, hoành tráng nhất và cũng là “thương hiệu” của du lịch Sóc Trăng chính là Lễ hội Ok- om-bok truyền thống với cuộc đua ghe ngo của người Khmer (vào ngày 15 tháng 10 âm lịch) hàng năm. Năm nào cũng vậy, cuộc đua qui tụ hàng trăm vận động viên các đội nam nữ người dân tộc Khmer ở TP Sóc Trăng, 8 huyện, các chùa và các tỉnh bạn thi tài. Hiện nay lễ hội này đã được nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia, tiến tới sẽ có các đội ghe quốc tế trong khu vực tham dự như Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Ở Sóc Trăng, còn có các lễ hội sông nước miệt vườn mùng năm tháng năm ở cồn Mỹ Phước, huyện Kế Sách; lễ hội cúng Phước Biển ở huyện Vĩnh Châu... Ngành du lịch đã khôi phục một số làng nghề truyền thống của đồng bào Khmer như đan lác, dệt chiếu, chạm khắc gỗ, mây tre lá, mè láo, bánh phồng tôm, lạp xưởng... và các hoạt động dân gian. Sóc Trăng sẽ mở ra tuyến du lịch sông biển đến đảo Phú Quốc với hành trình đi vòng qua mũi Cà Mau, nơi tận cùng của đất nước, ở biển Đông và trên sông Hậu sẽ có các loại hình du lịch giải trí, thể thao đa dạng hấp dẫn như nhảy dù, lướt ván, mô tô nước...

Ngành du lịch tỉnh Sóc Trăng đang phát huy các loại hình văn hóa, lễ hội truyền thống, đưa những hoạt động này trở thành sự kiện trong nước và khu vực để quảng bá hình ảnh tỉnh Sóc Trăng.

NGUYÊN THANH

Sóc Trăng cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế


Ngày 25/2, làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Sóc Trăng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề nghị tỉnh Sóc Trăng cần tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dù là tỉnh thuần nông, nhưng tỷ trọng nông nghiệp, thủy sản chiếm trên 50% cơ cấu kinh tế như hiện nay là khá cao.


Chủ tịch nước nhấn mạnh tỉnh cần phát huy tối đa thế mạnh của cơ sở nghiên cứu, lai tạo giống lúa mới để ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh nuôi tôm theo hướng công nghiệp, qua đó thu hẹp bớt diện tích nuôi trồng nhưng vẫn bảo đảm tăng về sản lượng, giá trị hàng hóa.


Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến thăm
các sư sãi chùa Dơi. (Ảnh: Nguyễn Khang/TTXVN)

Đồng chí đánh giá Sóc Trăng tới đây rất thuận lợi về thu hút đầu tư, nhờ có hạ tầng giao thông thuận tiện khi sân bay Trà Nóc, cầu Cần Thơ hoàn thành. Vì vậy, ngay từ bây giờ, tỉnh cần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, chuẩn bị tốt hạ tầng để thu hút các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.

Về những hạn chế, yếu kém của Sóc Trăng, Chủ tịch nước cho rằng, khó khăn hiện nay là quy mô kinh tế của tỉnh còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu. GDP bình quân đầu người mới bằng khoảng 3/4 mức bình quân cả nước. Vì vậy, bên cạnh nỗ lực của địa phương, Chủ tịch nước đề nghị các bộ, ngành Trung ương tích cực hỗ trợ Sóc Trăng trong một số dự án lớn như cảng nước sâu, khu kinh tế biển.

Chủ tịch nước lưu ý tỉnh Sóc Trăng cần quan tâm hơn nữa bảo đảm ổn định đời sống, các điều kiện hưởng thụ văn hóa, xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là đối với đồng bào Khmer. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer ở Sóc Trăng còn cao.

Đến thăm Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng, chùa Mahatup (chùa Dơi), chùa Khleang Sóc Trăng và trường Bổ túc văn hóa trung cấp Pali Nam Bộ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết hoan nghênh Hội đoàn kết sư sãi yêu nước và các sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động củng cố tình đoàn kết giữa người có đạo và người không theo đạo, giữa đồng bào Khmer và các dân tộc khác ở tỉnh. Đặc biệt, Hội đã tích cực đấu tranh, ngăn chặn các luận điệu kích động đồng bào Khmer chống Nhà nước, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vui mừng khi thấy cuộc sống của bà con Khmer ở Sóc Trăng ngày càng được nâng cao. Các cấp chính quyền quan tâm, tạo thuận lợi cho sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hỗ trợ xây dựng nhiều công trình thờ tự. Các chùa Phật giáo Nam tông Khmer thường xuyên tổ chức những chương trình hướng dẫn đồng bào nắm bắt khoa học kỹ thuật nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong lao động sản xuất; động viên nhau trong cuộc sống, giúp nhau xóa đói giảm nghèo./.

(TTXVN)

Tri Tôn: chuẩn bị đăng cai lễ hội văn hoá thể thao và du lịch dân tộc Khmer tỉnh An Giang lần thứ VII/2009

Đẩy mạnh tuyên truyền cổ động trực quan tạo khí thế sôi nổi nhân dịp tết cổ truyền CholChnamThmay của đồng bào dân tộc Khmer và đăng cai lễ hội văn hoá thể thao và du lịch dân tộc Khmer tỉnh An Giang lần thứ VII/2009. Trong những ngày qua, trung tâm VHTT huyện Tri Tôn tổ chức kẻ vẽ 50 băng rol song ngữ Việt – Khmer treo tại các trục đường chính trong nội ô thị trấn Tri Tôn và các xã lân cận. vẽ 72 m2 panô dựng 2 cụm tập trung tại khu dân cư. Ngoài ra trung tâm VHTT huyện sẽ tổ chức các khâu trang trí sân khấu, dựng 3 cổng chào, 1 xe hoa, 1 xe tuyên truyền cổ động và dựng 300 cờ các loại. Tuyển chọn 2 đội văn nghệ - thể thao tham dự lễ hội với trên 50 diễn viên, nghệ nhân và nhạc công.

Được biết, ngày hội văn hoá thể thao và du lịch dân tộc Khmer tỉnh An Giang lần thứ VII/2009 sẽ được diễn ra trong 4 ngày từ ngày từ ngày 10 đến 13/4/2009 với các nội dung như: triễn lãm một số hình ảnh về cộng đồng người Khmer An Giang. Liên hoan văn hoá ẩm thực truyền thống, chương trình văn hoá nghệ thuật, diễu hành xe ngựa, múa cộng đồng, các hoạt động thể thao và các trò chơi dân gian như: đẩy gậy, kéo co, đội cà ôm lấy nước, chạy việt dã, bóng đá, đua bò… dự kiến sẽ thu hút 9 đơn vị huyện thị, trường học và lực lượng vũ trang tham dự.

Anh Tuấn

Tri Tôn tổng kết ngành văn hoá


Huyện Tri Tôn vừa tổ chức tổng kết hoạt động lĩnh vực văn hoá thông tin năm 2008 và giao chỉ tiêu nhiệm vụ năm 2009.

Năm 2008, hoạt động văn hoá thông tin huyện Tri Tôn có nhiều khởi sắc. Đội thông tin lưu động dàn dựng 6 chương trình văn nghệ việt khmer phục vụ 36 buổi tại các xã thị trấn. Nhà truyền thống mở 10 đợt triển lãm tranh ảnh chủ đề về đảng, bác Hồ, bác Tôn, anh bộ đội cụ Hồ, thành tựu kinh tế văn hoá xã hội của huyện. Xây mới và đưa vào phục vụ bạn đọc thư viện huyện Tri Tôn với kinh phí 500 triệu đồng. Riêng về quản lý hoạt động kinh doanh, trong năm đội 814 huyện mở 12 đợt kiểm tra văn hoá và đã xử phạt gần 10 trường hợp vi phạm. Về bưu chính viễn thông toàn huyện 6.587 thuê bao điện thoại cố định, 25 điểm truy cập internet, 22 đại lý bưu điện và bưu điện văn hoá. Trong năm trung tâm thể dục thể thao tổ chức được 40 giải thể thao cấp huyện và huấn luyện 17 đội tham gia thi đấu cấp tỉnh giành nhiều thành tích cao. Đến nay tỷ lệ người dân tập thể dục thường xuyên là 25%. Đài truyền thanh huyện hoạt động 5,5 giờ mỗi ngày với 2 chương trình tiếng việt và khmer, trạm truyền thanh 12/15 xã đang hoạt động kịp thời thông tin tuyên truyền, nêu gương điển hình và nhiều mô hình hiệu quả để nhân dân áp dụng.
Năm 2009 bên cạnh đẩy mạng xã hội hoá trong các lĩnh vực văn hoá, thể thao du lịch, thông tin truyền thông, đầu tư trang thiết bị phục vụ tốt công tác này. Huyện sẽ triển khai thực hịên việc hiện đại hoá dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát thanh truyền hình, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động. Đẩy mạnh thể dục quần chúng, nâng chất hoạt động các câu lạc bộ, nhà văn hoá, phong trào văn nghệ, đào tạo năng khiếu có trọng điểm. Trong năm nay huyện Tri Tôn tiến hành đại hội thể thao cấp huyện, xã thị trấn. Đặc biệt là đăng tổ chức lễ hội văn hoá thể thao du lịch khmer tỉnh AG vào trung tuần tháng 4 tới.

Châu Phong

Lễ hội Cầu an gắn với tín ngưỡng tôn giáo

Xưa kia, khi chưa có tôn giáo, người Khmer chỉ nương tựa vào các vị thần thiên nhiên bảo hộ. Mỗi năm, khi tổ chức cúng và khấn vái đến các vị thần ấy, bà con nông dân đều đọc hay tụng bài khấn vái theo ý của mình. Nhưng trong lời khấn vái ấy cùng thống nhất chung một nội dung là cầu mong cho cuộc sống bình an, đất nước thanh bình, mưa thuận gió hoà và vụ lúa được trúng mùa bội thu… Từ khi có Phật giáo tiểu thừa hệ phái
Nam tông du nhập vào, được người Khmer tiếp đón rất nồng nhiệt. Hiện nay, đạo này là tôn giáo chính thức của người Khmer ở khu vực tây
Nam bộ, trong đó có tỉnh Vĩnh Long. Từ đó đến nay, phong tục tổ chức đám lễ đều gắn liền với tôn giáo. Nếu không kể những ngày đi chùa lễ bái Tam bảo hàng tháng thì hội lễ tôn giáo có các lễ hội định kỳ là: Lễ Phật Đản, lễ Rằm tháng giêng, lễ nhập hạ, lễ xuất hạ, lễ đặt cơm vắt, lễ Dâng y…Ngoài việc tổ chức lễ theo nghi thức tôn giáo, đồng bào Khmer còn tổ chức các lễ hội theo phong tục truyền thống như: Tết Chôl Chnam Thmây, lễ Sên Đôn ta, lễ hội Ok om bok, lễ hội Cầu an. Lễ hội Cầu an là một trong những lễ mang tính tiêu biểu và đặc thù nhất so với các lễ hội khác, mỗi nghi thức tổ chức đều gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo. Cụ thể là trong các ngày tổ chức lễ, từ sáng, trưa đến chiều và cả ban đêm đều có tổ chức tụng kinh như: lễ bái tam bảo, lễ thỉnh các vị chư tăng truyền giới, tín đồ dâng cơm cho nhà sư để cầu an, cầu siêu và hồi hướng phước cho các vị thần thánh và các ân nhân quyến thuộc đã qua cố… Theo quan niệm của người Khmer, bất cứ việc gì, dù thành công hay thất bại, ngoài các vị thần linh phù hộ, còn phải có đức Phật hỗ trợ. Điều này thể hiện qua các yếu tố sau đây:
a. Lễ cầu mưa:Theo quan niệm của bà con Khmer, năm nào bị hạn hán kéo dài, việc gieo cấy của nông dân bị chậm trễ hoặc thất mùa trong năm, tín đồ phải mời khoảng 10 nhà sư thay phiên nhau ra giữa cánh đồng, đứng phơi nắng tụng kinh cầu mưa (xom tức phliêng) để động lòng trời. Trước mắt, các vị sư, bà con đào một hố sâu, hoặc để một chậu, thau khô, trong hố và chậu khô có thả cá lóc. Việc này nhằm làm cho trời “động lòng” để đổ mưa xuống cho nông dân làm ruộng. Do vấn đề thuỷ lợi là cực kì quan trọng đối với người nông dân trồng lúa nước ở nhiều dạng khác nhau. Từ phong tục nêu trên, người Khmer ở Vĩnh Long vẫn duy trì và phục hồi các nghi thức này cho đến ngày nay. Con cá lóc nằm trong cái thau khô để ông trời thấy con cá cũng như nông dân đang đau khổ, cầu mong có nước mưa làm ruộng, nên sẽ ban nước mưa xuống trần gian. Nghi thức này dựa theo sự tích có nguồn gốc từ Phật giáo, được trích trong kinh (Sô phon -tô). Sự tích nói con cá lóc là tiền thân của Đức Phật, trải qua các kiếp luân hồi, sống trong một cái hồ thật lớn tên là Anot - tas. Từ khi ngài sinh ra cho đến lớn, không bao giờ sát sinh, chỉ biết ăn rong rêu và cỏ mục để sống. Qua thời gian hạn hán 12 năm, mọi nơi đều khô cạn kể cả hồ Anot-tas, mọi sinh vật như tôm, tép, cá lớn, cá bé đều chết, muôn vàn tai hoạ đưa đến rất khủng khiếp. Cá lóc suy ngẫm: Ta đây, từ sinh ra đến giờ không làm hại ai, chỉ biết trầm tư mặc niệm, tại sao trời nỡ sát hại muôn loài và sát hại cả bản thân ta. Nghĩ vậy cá bèn kêu trời: “Thưa Ngọc hoàng, Ngọc hoàng có thấy thế gian đau khổ chăng? Ta đây 12 năm tu tâm nhập thiền hầu kiếp sau đắc đạo cứu chúng sinh. Vậy giờ đây ta kêu gọi Ngài hãy cứu muôn loài dưới thế gian này bằng cách ban cho những giọt mưa lành”. Tiếng kêu ấy động đến trời, Ngọc hoàng nhìn xuống thấy con cá lóc đúng là hiện thân của Đức Phật tương lai, bèn ban mưa xuống cứu rỗi cho thế gian và muôn loài. Qua những nghi lễ trên, chúng ta có thể nói lễ hội Cầu an vừa mang hình thức tín ngưỡng dân gian vừa là tín ngưỡng tôn giáo, mang đặc trưng của lễ nghi nông nghiệp. b. Nghi thức An vị tượng Phật: Hàng năm, mỗi khi diễn ra lễ hội Cầu an, Ban tổ chức lễ đều chuẩn bị sẵn áo cà sa, 1 cây dù, 1 bình bát và các lễ vật gồm: bình bông và nhang đèn, còn bổn đạo Phật tử thì lo tắm rửa và lau chùi tượng hoặc tranh đức Phật của nhà mình cho sạch sẽ, đem đến nơi tổ chức để làm lễ an vị tượng Phật. Nghi thức này nhằm tạo điều kiện gom tranh và tượng Phật lại, sắp đặt nơi trang trọng nhất để bà con đốt nhang niệm Phật. Sau đó mời 1 vị Achar đại diện kể lại tiểu sử của đức Phật Thích ca mâu ni từ khi mới sinh đến khi nhập niết bàn. Câu chuyện kể nhằm mục đích làm cho bà con Khmer thấy rõ cuộc đời và sự nghiệp của Ngài, dù sinh ra và lớn lên trong dòng họ cổ đàm (nhà vua) ở hoàng cung, nhưng Ngài đã ra đi tìm cách sống rất giản dị. Đặc biệt là Ngài đã mang theo bình bát đi khất thực từ nhà này đến nhà khác để chia sẻ với nông dân nghèo…Trong lễ này, ban tổ chức còn thỉnh chư tăng tụng kinh phúc chúc và cầu nguyện, ý nghĩa là làm cho tranh và tượng Phật càng thêm linh thiêng, bảo hộ và chăm sóc gia đình được nhiều điều tốt lành hơn. c. Nghi thức đặt cơm vào bình bát cho nhà sư: Ngày nay, tục lễ mời các vị sư ra đứng phơi nắng giữa đồng ruộng để tụng kinh cầu mưa không còn nữa. Thay vào đó, Ban tổ chức và bà con Khmer mời từ 40 đến 50 vị sư mang theo bình bát đựng cơm, đứng xếp hàng xung quanh trại, nơi tổ chức lễ hội Cầu an để tín đồ cúng dường; trong đó một người chỉ được phép đặt vào bình bát 1 muỗng cơm và dâng một số ít tiền. Khi đi xung quanh một vòng trại, bình bát các vị sư đều có đầy cơm. Việc tổ chức đặt cơm vào bình bát cho nhà sư cũng biểu hiện lên sự sung túc, với ý muốn lúa được trúng mùa bội thu trong năm. Đây là các yếu tố cho ta thấy lễ hội Cầu an gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo.

Lễ hội Cầu an gắn liền với sản xuất nông nghiệp

Từ xưa đến nay, người Khmer Nam bộ cũng như người Khmer ở tỉnh Vĩnh Long đa phần đều phụ thuộc vào ngành nghề sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, làm rẫy, nuôi trồng thuỷ sản là chủ yếu. Ngày xưa, các nhà khoa học chưa sản xuất được các loại thuốc trừ sâu để trị bệnh cho lúa, cho nên hàng năm sau khi thu hoạch xong vụ lúa, nông dân Khmer đều tập trung đem vật cúng đến ruộng của mình để cúng và khấn vái đến Neak Ta srê (thần ruộng), để cầu mong cho được mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, vụ lúa được trúng mùa bội thu. Cách thức tổ chức giản đơn này được người Khmer giữ gìn cho đến ngày nay. Từ cách thức tổ chức ban đầu, đến nay bà con Khmer tập trung phối hợp dựng trại ngoài đồng để tổ chức lễ. Từ đó, họ gọi lễ này là lễ hội Cầu an. Lễ này có xuất xứ từ sản xuất nông nghiệp, nên mọi yếu tố của lễ đều thể hiện việc gắn liền với nghề nông. Địa điểm và thời gian tổ chức: Thông thường, người ta tổ chức lễ hội ngoài đồng ruộng vào mùa khô, sau khi thu hoạch xong vụ lúa đông xuân. Thời gian tổ chức vào đầu hoặc cuối tháng 4 dương lịch, trước hoặc sau tết Cổ truyền Chôl Chanam Thmây. Đây là thời điểm cuối mùa khô, chuẩn bị vào mùa mưa. Các lễ vật và vật cúng trong ngày lễ đều là sản phẩm có từ ngành nghề sản suất nông nghiệp trồng lúa nước như: Lúa, gạo, rượu, cau, trầu ,chuối, dừa, gà, vịt, heo… Nơi cúng và khấn vái:Ngoài nơi tổ chức dựng trại, trong nghi thức lễ thường gặp, chúng ta không thấy có đền đài và thánh tượng. Nhưng có nơi cũng thấy có xây vài cái miếu nhỏ và lập bàn thờ để cúng tế. Điều đó chứng tỏ rằng: trong thời kỳ trồng lúa, làm rẫy và chăn nuôi người Khmer luôn luôn gần gũi với các vị thần và các hình thức tổ chức ngoài trời nhằm giao lưu trực tiếp với các vị thần linh ấy. Các vị thần linh bảo hộ trong việc sản xuất nông nghiệp: Người Khmer tin tưởng vào việc cúng kiến đến các vị thần linh mà họ cho là có quan hệ đến ngành nghề nông nghiệp trồng lúa nước của họ. Từ quan niệm đó, hằng năm bà con Khmer đều chuẩn bị các lễ vật và vật cúng đem ra ngoài đồng hoặc miếu để cúng các vị thần Ruộng (Neak ta srê), thần Mục súc (A răk viel), hoặc Thổ địa (Neang hing preas thôra nây), mong các vị ấy bảo vệ lúa, xua đuổi chuột, sâu rầy…Nghi thức cúng kiến này càng thịnh hành hơn vào những năm thời tiết bất thường. Đặc biệt, năm nào có hạn hán kéo dài, dân chúng nằm trong phạm vi bị ảnh hưởng về mùa màng, ruộng, rẫy thường đem các vật cúng này đến tại miếu của thần Niec ta Srê để làm lễ cầu xin nước mưa. Lễ nghi này được tiến hành theo cách thức như: chọn ngày tốt, giờ thiêng, thường là buổi chiều ngày thứ bảy. Trước khi sắp đặt lễ vật xong, đoàn người tham gia cuộc lễ xếp hàng một trước miếu ông Tà. Họ đi vòng quanh miếu 3 lần theo chiều kim đồng hồ, đi đầu là chủ lễ (thường là ông A cha) là người am hiểu sâu về phong tục tập quán. Mỗi khi người dân Khmer muốn làm nhà, tổ chức lễ cưới, lễ hội, đám tang… đều nhờ đến các vị A cha ấy. Kế các vị A cha là các thanh niên cũng được tham gia khấn vái. Trước khi vào lễ, ông A cha và mọi người trong đoàn đều ngồi theo hàng ngang trước miếu ông Tà và cắm nhang vào bàn thờ. Ông Tà được tượng trưng bằng 1 hoặc 2 cục đá hình bầu dục. Họ ngồi xuống, hai tay chắp trước ngực tỏ lòng thành kính theo lời đọc tụng của ông A cha. Nội dung cầu nguyện của bài khấn là cầu xin cho mưa thuận gió hoà để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, trồng lúa, làm rẫy và nuôi trồng thuỷ sản được tốt. Một số dẫn chứng vừa nêu cho chúng ta thấy lễ hội Cầu an của người Khmer gắn chặt với nền sản xuất nông nghiệp lúa nước.

vhvinh

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2009

Làm việc với tỉnh Cà Mau, Phó trưởng Ban thường trực ban chỉ đạo Tây Nam bộ - Sơn Song Sơn: Phải coi trọng khâu đào tạo cán bộ, nâng cao nhận thức cho


Từ ngày 19 đến 22-8, đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ do Phó trưởng Ban Thường trực Sơn Song Sơn làm trưởng đoàn, có chuyến làm việc với tỉnh Cà Mau về tình hình thực hiện chính sách Dân tộc - Tôn giáo thời gian qua và một số lĩnh vực quan trọng khác liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer của địa phương. Sau khi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy để nắm tình hình, đoàn đã có buổi họp mặt các cán bộ, chức sắc, đồng bào dân tộc Khmer và đi thăm chùa Rạch Giồng, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình; chùa Monivongsabopharam, Phường 1, Tp.Cà Mau; Salaltel xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi…

Bà con dân tộc Khmer ấp Đường Đào trên đường đến cầu Rạch Giồng đón đoàn công tác Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ về thăm và làm việc tại địa phương.


Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ làm việc với cán bộ lãnh đạo, chức sắc đồng bào dân tộc tại xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình

Báo cáo với đoàn công tác về kết quả thực hiện chính sách Dân tộc - Tôn giáo thời gian qua của Cà Mau tại buổi họp mặt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh - Trịnh Minh Thành nhấn mạnh: Đây là vấn đề được Đảng bộ Cà Mau đặc biệt quan tâm. Toàn tỉnh hiện có trên 37 ngàn người dân tộc Khmer (điều tra năm 2005), tỷ lệ hộ nghèo chiếm trên 51%, đến năm 2007, giảm còn 38,6% (mỗi năm giảm 4%). Giai đoạn 2000-2008, đã triển khai và thực hiện nguồn vốn Chương trình 135, đồng thời lồng ghép các chương trình của tỉnh vào các hạng mục công trình gồm: giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, chợ nông thôn và trợ giá, trợ cước, vốn sản xuất… trên 309 tỷ đồng; xây dựng hoàn thành ba trung tâm cụm xã theo Chương trình 135 của Chính phủ tại các huyện Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình. Việc xây dựng hoàn thành các trung tâm cụm xã đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nói chung, đồng bào dân tộc Khmer nói riêng; việc đào tạo cán bộ và cử tuyển con em dân tộc vào các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề cũng được chính quyền quan tâm sâu sắc. Đã có 127 con em là người dân tộc được đào tạo theo hình thức này. Nổi bật nhất phải kể đến là việc triển khai thực hiện các Quyết định 134 và 74 của Thủ tướng Chính phủ, về hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi ngành nghề và học nghề đối với đồng bào dân tộc Khmer. Đến nay, tỉnh đã hỗ trợ xây dựng được 5.685 căn, bàn giao sử dụng 4.689 căn, tổng trị giá trên 38,3 tỷ đồng và trên 53.000m2 đất, cho 1.014 hộ, bình quân mỗi hộ gần 50m2; về đất sản xuất, đã lồng ghép vào các chương trình khác trên địa bàn được 111 hộ, với 136ha. Đây là cố gắng rất lớn của Đảng bộ, quân và dân Cà Mau, từ kết quả đáng trân trọng này, một số vùng và bộ phận đồng bào dân tộc cuộc sống đã khá lên, đời sống văn hóa được cải thiện đáng kể.


Ông Sơn Song Sơn - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ thăm và làm việc tại chùa Monivongsabopharam Phường 1, TP.Cà Mau


Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ thăm cụm công nghiệp Khí-Điện-Đạm Cà Mau

Đồng bào dân tộc Khmer, các cán bộ, đảng viên, chức sắc trong tỉnh rất quan tâm đến chuyến đi của đoàn cán bộ Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. Tại những nơi đoàn dừng chân như: chùa Rạch Giồng, xã Hồ Thị Kỷ; chùa Cao Dân, xã Tân Lộc (huyện Thới Bình); Salaltel xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi; chùa Monivongsabopharam, Phường 1, Tp.Cà Mau, hàng trăm đồng bào dân tộc, chức sắc, chức việc, sư sãi, người dân, rất vui mừng, phấn khởi chào đón, tiếp xúc và trao đổi một cách thẳng thắn, chân tình, dân chủ, cởi mở với các thành viên trong đoàn. Đồng bào dân tộc cho rằng, nhiều năm qua, mặc dù Cà Mau còn nghèo, nhưng Đảng, chính quyền các cấp đã hết sức lo cho dân, tạo mọi điều kiện để đồng bào dân tộc ổn định cuộc sống, hưởng thụ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người dân tộc Khmer. Bà con bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Nói chuyện với trên 300 đồng bào dân tộc, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đảng viên, chức sắc của tỉnh ngày 20-8, Phó trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - Sơn Song Sơn biểu dương những kết quả tích cực mà Cà Mau đã đạt được trong lĩnh vực kinh tế-xã hội, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả chính sách Dân tộc - Tôn giáo, trong đó có một số chương trình, mục tiêu liên quan đến người dân tộc Khmer. Ông Sơn Song Sơn cho biết, mục đích của chuyến thăm và làm việc lần này với tỉnh là nhằm thông tin thêm tình hình trong nước và thế giới, một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước liên quan đến chính sách Dân tộc - Tôn giáo và lịch sử của vùng đất Nam Bộ cho cán bộ lãnh đạo các cấp nắm được, để tham khảo, vận dụng và triển khai thực hiện tốt hơn chính sách Dân tộc - Tôn giáo trên địa bàn. Từ đó nâng cao nhận thức trong cán bộ chủ chốt, cán bộ đương chức, các chức sắc, sư sãi, tín đồ, ban quản trị các chùa về chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước. Phải nhận thức đầy đủ chính sách Dân tộc bình đẳng của Đảng, Nhà nước để đủ lực, đủ sức đề kháng với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá Đảng, chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nếu các cán bộ, đảng viên nhận thức được điều này, sẽ chỉ đạo từng cấp, từng ngành thực hiện tốt hơn, tự tin hơn, làm cho đồng bào dân tộc Khmer tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; làm cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước thật sự đi vào cuộc sống của người dân, nhất là đồng bào dân tộc Khmer; đồng bào dân tộc phải coi đất nước Việt Nam này, dân tộc Việt Nam này là khối tài sản chung của cả ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, không có thế lực nào có thể chia rẽ được. Việt Nam đi lên, người dân tộc cũng phải đi lên; mà muốn làm được điều đó, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ với đầy đủ năng lực và phẩm chất, đặc biệt là cán bộ người dân tộc. Đường lối chính sách, cũng từ cán bộ xây dựng mà nên, cán bộ cũng là người quyết định, triển khai thực hiện đường lối. Đối với cán bộ là người dân tộc, ngoài việc được Đảng phân công, còn phải gánh nặng thêm dân tộc của mình; cán bộ người dân tộc mà không nói được tiếng của dân tộc thì không thể tuyên truyền được chủ trương, chính sách đến đồng bào dân tộc, hẳn chưa phải là cán bộ. Cán bộ mà xa dân, xa sư sãi, đồng bào… là có lỗi. Bởi dân tin Đảng, tin Nhà nước, tin ở đường lối, chủ trương, ở cán bộ của mình. Nếu là người Kinh bình thường, Đảng, Nhà nước không cần đào tạo cán bộ người dân tộc để làm gì. Bởi vậy, dù ở cương vị, chức vụ nào cũng nên nỗ lực, học tập tiếng mẹ đẻ của mình. Cán bộ người Kinh còn phải học, mình mẹ là người Khmer, cha là người Khmer, nên phải học tiếng dân tộc, phải phát huy, bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, cán bộ luôn là khâu quyết định. Ở Cà Mau, cán bộ người dân tộc, so với dân số là người dân tộc chung trong tỉnh còn thấp, chỉ khoảng 200 cán bộ trên hơn 37 ngàn dân. Nên, Đảng bộ Cà Mau phải quan tâm đến vấn đề này, phát triển, đào tạo, bố trí, cán bộ đảng viên cho tốt, hợp lý, tạo điều kiện giúp cán bộ, đảng viên đi lên; làm sao cho trình độ dân trí người dân tộc phải được nâng lên; người dân tộc, cán bộ đảng viên là người dân tộc cũng phải nỗ lực hơn, phải biết hai thứ tiếng, phổ thông và tiếng mẹ đẻ; tiếng nói và chữ viết dân tộc cần phải được bảo tồn và phát huy.

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ DÂN TRÍ, GIỮ GÌN PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC KHMER

LTS: Nhân chuyến làm việc của đoàn công tác Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tại Cà Mau từ ngày 19 đến 22-8, Báo ảnh Đất Mũi có cuộc phỏng vấn Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - Sơn Song Sơn, xung quanh một số vấn đề dân tộc, tôn giáo trong tình hình hiện nay.


Ông Sơn Song Sơn - UVTƯ Đảng, Phó trưởng Ban Thường trực
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ

PV: Những năm gần đây, đời sống của đồng bào dân tộc Khmer ở khu vực Tây Nam Bộ nói chung, Cà Mau nói riêng đã nâng lên rõ rệt, nhận định của ông về vấn đề này như thế nào, thưa ông?
- Ông Sơn Song Sơn - Ủy viên Trung ương Đảng - Phó trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
: Sự phát triển của đồng bào dân tộc Khmer, không thể tách rời sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc trong vùng. Riêng vùng đồng bào dân tộc Khmer, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách như Chỉ thị 68 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như: Quyết định 135 “Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa”; Quyết định 134 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; các chính sách về trợ giá, trợ cước, chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn; chính sách về giáo dục, văn hóa và y tế... Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 “Về ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đến năm 2010”; Quyết định số 74 “Về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng ĐBSCL đến năm 2010”, từ đó đã tạo sự chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội trong vùng dân tộc Khmer: Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt... đã có bước phát triển khá, làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn vùng dân tộc Khmer; công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai trên diện rộng. Đến nay, có gần 70.000 hộ dân tộc Khmer được hỗ trợ nhà ở, trên 18.000 hộ được hỗ trợ đất ở, 26.000 hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt, gần 3.000 hộ được hỗ trợ đất sản xuất, nhiều lao động có việc làm, đời sống đồng bào được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm, không còn hộ đói. Lĩnh vực giáo dục, đào tạo có bước phát triển đáng kể. Toàn vùng hiện có 21 trường phổ thông dân tộc nội trú với 6.068 học sinh. Cán bộ giáo viên Khmer hiện có 6.900 người. Các chùa Khmer hằng năm đều có tổ chức dạy bổ túc văn hóa song ngữ, Khmer ngữ, tiếng Pali, chương trình phật học Vini cho đồng bào và sư sãi... Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy. Văn hóa, nghệ thuật, báo chí, phát thanh, truyền hình có nhiều khởi sắc. Lễ, tết dân tộc được duy trì và phát huy. Nhiều ngôi chùa được trùng tu, xây dựng khang trang. Đội ngũ cán bộ dân tộc Khmer ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, được bố trí sử dụng trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong đó có một số cán bộ tiêu biểu được cơ cấu vào vị trí quan trọng ở các cấp, góp phần lãnh, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị trong vùng dân tộc Khmer ngày càng hiệu quả hơn.

Đối với Cà Mau, nhiều năm qua, Trung ương và địa phương đã lồng ghép nhiều nguồn vốn khoảng 464 tỷ đồng cho Chương trình 135, 134. Qua đó, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư khá; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 51,5% năm 2005 đến nay còn 38,6%, không còn hộ đói; có 5.386 hộ được hỗ trợ nhà ở, 1.079 hộ được hỗ trợ đất ở, 111 hộ được hỗ trợ đất sản xuất, 135 hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt và có 10 dự án hỗ trợ di dân đang được triển khai thực hiện. Ngoài ra, tỉnh Cà Mau còn hỗ trợ nhạc cụ; sửa chữa, xây dựng chùa, tha la để đồng bào Khmer có điều kiện giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đội ngũ cán bộ Khmer ở Cà Mau cũng được cấp ủy các cấp trong tỉnh quan tâm đào tạo, bố trí sử dụng ngày càng nhiều hơn trước.

PV: Ông có thể nêu một số định hướng và giải pháp cụ thể mà Đảng, Nhà nước sẽ triển khai thực hiện trong thời gian tới đối với đồng bào dân tộc Khmer?
- Ông Sơn Song Sơn: Định hướng chung là, các địa phương trong vùng Tây Nam Bộ, trong đó có tỉnh Cà Mau tổ chức thực hiện tốt Kết luận số 67-TB/TW ngày 14-3-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 68 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI, về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer; Chỉ thị số 14/2003/CT-TTg ngày 5-6-2003 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng vùng ĐBSCL thời kỳ 2001 - 2010; Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 5-2-2008 của Thủ tướng Chính phủ, về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố ĐBSCL đến năm 2010, Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 9-6-2008 của Thủ tướng Chính phủ, về việc hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo... Thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo, từng bước nâng mức sống đồng bào dân tộc Khmer ngang bằng các dân tộc trong vùng và cả nước. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và giá trị tốt đẹp của Phật giáo Nam tông Khmer. Đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc Khmer ngang tầm với yêu cầu mới... Trong đó vấn đề đặc biệt quan tâm là nâng cao trình độ học vấn và chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để đồng bào có cơ hội tốt về việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

PV: Về thăm Cà Mau lần này, cảm nhận riêng của ông về đất và người nơi đây ra sao, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer. Ông sẽ phát biểu mang tính gợi mở những vấn đề gì, để Đảng bộ Cà Mau tập trung làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo trong thời gian tới?
- Ông Sơn Song Sơn: Cảm nhận đầu tiên của tôi là người dân Cà Mau có truyền thống đoàn kết. Truyền thống đó đã tạo nên động lực mạnh mẽ, thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương đã và đang trên đà phát triển tốt, là một trong những tỉnh có sản lượng khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thủy hải sản lớn nhất vùng. Trong tương lai, Cà Mau sẽ trở thành tỉnh có nền công nghiệp phát triển. Để Cà Mau vừa phát triển nhanh, vừa giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, ngoài việc tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội chung trên địa bàn tỉnh, đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer, Đảng bộ Cà Mau cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề như tôi đã đề cập trong phần định hướng trên. Trong đó đặc biệt quan tâm việc đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để lao động học nghề và việc làm, chuyển phần lớn lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ với tỷ lệ hợp lý theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất của địa phương. Nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, để đồng bào có nơi sinh hoạt văn hóa, tôn giáo. Quan tâm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, nhất là công tác cán bộ và phát triển đảng viên, hội viên các đoàn thể chính trị. Có kế hoạch sử dụng số sinh viên tốt nghiêp ra trường, nhất là sinh viên dân tộc Khmer hệ cử tuyển, để đào tạo, bổ sung nguồn cán bộ dân tộc các cấp của tỉnh. Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 06/2008/CT-TTg, ngày 1-2-2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tranh thủ chức sắc các tôn giáo và người có uy tín trong dân tộc.

Đồng bào các dân tộc ở Cà Mau có truyền thống đoàn kết lâu đời, truyền thống đó được Đảng ta phát huy cao độ trong suốt thời kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng bộ Cà Mau cần tiếp tục phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết tốt đẹp này, nhằm tập trung khai thác có hiệu quả nhất tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

PV: Cảm ơn ông!.

CHÍ BẮC – Thực hiện


TRẦN TUẤN – CHÍ BẮC

Tìm hiểu về ẩm thực của đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long



Bún nước lèo.

Mặc dù cộng cư lâu dài với các dân tộc Việt, Hoa, Chăm anh em, nhưng đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn bảo tồn, phát huy được những nét đẹp văn hóa truyền thống. Bên cạnh nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, lễ hội, trang phục... thì tập quán cư trú, văn hóa ẩm thực cũng là một khía cạnh của văn hóa đặc biệt của bà con Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong một thời gian dài người Khmer đã cộng cư với các dân tộc Việt, Hoa, Chăm trên cùng một địa bàn cư trú nên văn hóa có sự tiếp xúc và giao thoa là điều tất nhiên. Người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay không chỉ có các món ăn truyền thống của dân tộc mình mà còn ăn các món của các dân tộc khác - làm phong phú thêm cho văn hóa ẩm thực. Tuy vậy, trong sinh hoạt đời thường, cũng như trong sinh hoạt lễ hội truyền thống, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn có ý thức giữ gìn và phát triển những món ăn mang tính đặc trưng của dân tộc.

Văn hóa ẩm thực của người Khmer hết sức phong phú và đa dạng. Từ các món ăn trong sinh hoạt thường ngày, đến các món ăn trong các dịp lễ Tết, giỗ chạp của người Khmer đều thể hiện được sự ứng xử của con người đối với môi trường thiên nhiên. Họ lựa chọn các thức ăn có nguồn gốc từ tự nhiên, chế biến và sáng tạo ra nhiều món ăn khác nhau. Đến nay, đồng bào Khmer đã có được một danh sách dài về các món ăn đặc trưng. Trong đó, có các món tiêu biểu như: mắm bò hóc, canh chua, canh som lo, bún nước lèo, cốm dẹp, bánh thốt nốt, nước thốt nốt,v.v...

Tập quán của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là cư trú ở nông thôn, trên những giồng đất cao. Phần lớn bà con Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long chuyên sống bằng nghề nông, chủ yếu là sản xuất lúa gạo, hoa màu, đánh bắt thủy hải sản với quy mô nhỏ.

Đặc biệt, đối với người Khmer, mắm không chỉ là một món ăn thường dùng trong bữa cơm, mà nó còn là một thứ gia vị đặc biệt, đôi khi mang tính bắt buộc trong việc chế biến nhiều món ăn. Chỉ riêng mắm cũng có nhiều loại, loại nào cũng đòi hỏi sự khéo léo, công phu và kỹ thuật chế biến. Mắm bò hóc là một ví dụ điển hình.

Mắm bò hóc (Pro-hốc) là món ăn khá đặc trưng của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long... thể hiện công phu, sáng tạo và đôi tay khéo léo bà con ta. Mắm bò hóc có thể được làm từ nhiều loại cá nhỏ, như: cá sặc, cá chốt, cá lòng tong... đến những loại cá lớn như: cá trê, cá lóc.... Sau khi đánh bắt về, bà con lựa những con cá còn tươi đem đánh vẩy, mổ bụng ra rồi rửa cho sạch, đem phơi nắng cho ráo nước. Khi cá đã ráo nước thì ướp muối, trộn với cơm nguội, cho vào hũ, hoặc khạp, rải muối hột vào rồi gài cứng, đậy nắp lại, để khoảng từ bốn tháng đến sáu tháng là ăn được. Muốn ăn, người ta vớt con mắm ra, để nguyên con đem kho, thêm một ít gia vị chứ không cần chế biến gì thêm. Ăn mắm sống thì kèm chanh, ớt với khế, chuối chát, rau sống... Hoặc chưng mắm thì cho vào ít lá chanh, lá gừng xắt nhỏ, ớt, đường và chanh. Ngoài ra, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn có loại mắm chua gọi là Pò ót (Pro ot), được làm từ tép bạc mòng - một loại tép nhỏ rất phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi chế biến, người ta trộn với đu đủ, riềng hoặc gừng non, để khoảng 10 ngày là ăn được.

Ngoài dùng làm món ăn chính, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn dùng mắm bò hóc để làm gia vị chính trong việc nêm nếm các món ăn khác, như: nêm vào canh som lo, bún nước lèo, nước bún cà ri, hoặc đôi khi dùng làm nước chấm cho các món cá nướng, rắn nướng...

Canh som lo cũng là một món canh tiêu biểu trong kho ẩm thực của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nó khác với tất cả các loại canh của người Việt hay người Hoa. Cách nấu món canh này cũng rất công phu: người ta dùng thịt, cá tươi nấu với rau ngổ, chuối ghém, hoặc trái đu đủ non và được nêm bằng mắm bò hóc. Ngay cả món canh này, người Khmer cũng có nhiều loại khác nhau. Như: som lo mít, som lo bình bát... Mỗi loại canh đều thể hiện sự phong phú, tài khéo léo khác nhau của người nấu. Đầu tiên, người ta lấy mắm bò hóc cho vào nồi nước nấu nhừ, lược bỏ xương để lấy nước. Sau đó cho vào ba, bốn gốc sả đập dập. Khi cần nấu với mít non thì người ta cho mít non vào, cần nấu với bình bát thì cho bình bát vào. Nếu nấu với cá lóc thì cá lóc được lọc lấy thịt, bỏ xương, cho thêm ít tép vào nấu chung. Món này đã được bà con người Hoa, người Việt tiếp thu và chế biến lại cho hợp với khẩu vị của mình.

Đặc biệt, món bún nước lèo của người Khmer được cả người Việt và người Hoa ưa thích và đã trở thành một đặc sản ẩm thực chung của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, được nhiều du khách phương xa ưa chuộng . Món này, người nấu dùng tôm, cá nấu nhừ lấy nước cốt, đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối ớt, sả... bên cạnh hai món không thể thiếu là ngải bún giã nhỏ và mắm bò hóc. Đây là một thứ nước lèo rất tuyệt hảo.

Cốm dẹp thường được người Khmer làm trong dịp lễ cúng trăng (Ok-om-bok). Hằng năm, cứ vào ngày 15 tháng 10 âm lịch, đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu vào lễ hội cúng trăng. Lúc này, ngoài đồng, lúa nếp cũng đã bắt đầu chín, vẫn còn thơm mùi sữa. Người ta gặt những hạt lúa nếp đó đem về rang nóng rồi giã dẹp trong cối để tạo thành một món cốm dẹp vàng thơm, vừa béo vừa thơm và ngọt lịm trong đêm lễ hội cúng trăng. Cốm dẹp thường được ăn bằng cách trộn với dừa, đường cát tạo thành một hỗn hợp các hương vị làm ấm lòng thực khách trong đêm lễ hội chờ trăng lên.

Cũng như các dân tộc khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer có nhiều món bánh đặc trưng của mình. Trong đó, phổ biến nhất là các loại bánh ngọt, bánh tét Bánh ngọt, bánh tét có mặt gần như hầu hết trong các dịp lễ hội của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tiêu biểu có các loại bánh: bánh Cô Nóc, bánh củ gừng, bánh tai yến... nhưng tiêu biểu hơn cả có thể nói là bánh thốt nốt. Nguyên liệu làm bánh từ trái thốt nốt- trái thốt nốt có nhiều ở những khu vực đông đảo người Khmer sinh sống. Đúng như tên gọi của nó, bánh được làm từ trái thốt nốt. Để làm món bánh này, người ta bẻ trái thốt nốt xuống, đem chà vào rổ để lấy bột, đem bột này trộn với bột gạo, thêm chút dừa nạo, sau đó lấy lá thốt nốt gói lại, rồi đem hấp cho bánh chín nở lên. Bánh thốt nốt hấp chín có màu vàng ươm với mùi thơm hết sức đặc trưng của trái thốt nốt không lẫn vào đâu được. Cắn vào bánh, cảm nhận có vị ngọt tinh khiết, cộng với vị béo của dừa làm cho người ăn cảm thấy ngon vô cùng.

Nhìn chung, thức uống của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long không khác mấy so với các dân tộc khác. Duy chỉ có nước thốt nốt là loại thức uống mang tính đặc trưng của dân tộc này. Cây thốt nốt được trồng nhiều ở vùng có đông đảo người Khmer sinh sống. Thân như cây dừa nhưng lá như lá cọ. Trái thốt nốt có rất nhiều công dụng, nào uống tươi, ăn cái, làm đường, và làm cả bia chua. Đặc biệt, nước thốt nốt uống tươi là một thứ nước giải khát tuyệt vời cho du khách gần xa. Nước thốt nốt có hương vị rất đặc biệt, không lẫn với bất cứ hương vị của thức uống nào khác. Uống vào làm mát rượi cả cuống họng, ngọt lịm, thơm lừng nhưng lại ngọt thanh chứ không gắt cổ, làm tan đi bao nỗi mệt nhọc sau những ngày lao động vất vả.

Trước đây, nước thốt nốt được người ta để trong ống tre, gánh đi bán. Khi có khách, người bán sẽ dừng quang gánh lấy ra từng ống tre cho khách uống. Ngày nay, cảnh đó ít thấy, mà thay vào đó, người ta bổ trái thốt nốt ra, nạo những muối cùi trắng muốt cho vào ly, cho nên du khách có thể vừa uống nước vừa ăn cái. Cái thốt nốt rất bùi và béo hòa quyện với mùi thơm của nước thốt nốt làm cho ly nước giải khát của người uống có hương vị lạ, ngon tuyệt vời.

Nhìn chung, các món ăn của đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy không cầu kỳ, nhưng nó phản ánh khá rõ nét khía cạnh văn hóa trong ẩm thực của cộng đồng này: phong phú, đa dạng và mang bản sắc riêng.

Bài, ảnh: TRẦN PHỎNG DIỀU

Thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam - Campuchia ngày càng phát triển



Chiều 23/2, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp bà Som Kimsour, Bộ trưởng Bộ Quan hệ Quốc hội - Thượng viện và Thanh tra Campuchia

Tại buổi tiếp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, mối quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia là tài sản vô cùng quý giá mà Chính phủ và nhân dân hai nước cần làm hết sức mình để đưa mối quan hệ này ngày càng phát triển toàn diện. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sẽ làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia ngày càng phát triển trên tất cả các lĩnh vực, mang lại lợi ích cho cả hai bên. Bởi vậy, cơ quan thanh tra hai nước cần tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và góp phần vun đắp, phát triển mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia.

Bộ trưởng Som Kim Sour thông báo với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về kết quả của buổi hội đàm giữa Đoàn đại biểu Bộ Quan hệ Quốc hội - Thượng viện và Thanh tra Campuchia với Đoàn đại biểu Thanh tra Chính phủ Việt Nam. Bà Som Kim Sour bày tỏ, việc xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa Chính phủ, nhân dân hai nước Campuchia và Việt Nam sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy công cuộc ổn định và phát triển kinh tế, xã hội chung của cả ba nước láng giềng Việt Nam-Campuchia- Lào./.

TTXVN

Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ thăm đồng bào Khmer Sóc Trăng



(VOV) - Đồng bào sư sãi Khmer bày tỏ niềm vui trước chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp đồng bào Khmer phát triển sản xuất nâng cao đời sống.

Sáng nay (24/2), Đoàn cán bộ Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ do ông Sơn Song Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo dẫn đầu đến thăm, gặp gỡ đồng bào và sư sãi Khmer huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Hơn 500 đồng bào và sư sãi Khmer huyện Vĩnh Châu dự buổi gặp mặt.

Tại buổi gặp mặt, ông Sơn Song Sơn thông báo về kết quả việc triển khai chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào Khmer trong thời gian qua và động viên bà con phát huy tinh thần đoàn kết, thi đua lao động sản xuất để nâng cao cuộc sống.

Anh Thạch Nhung, người Khmer, ở xã Vĩnh Châu, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cho biết: Nhờ có các chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước, kinh tế, văn hoá xã hội ở địa phương có bước phát triển, giao thông nông thôn, cầu đường, trường học, trạm xá được hoàn chỉnh hơn so với trước đây. Con cháu đi học có trường học khang trang hơn, đó là niềm phấn khởi chung của bà con toàn xã./.

TTTin

Cần kiểm điểm trách nhiệm với đồng bào dân tộc thiểu số


Làm việc với Ủy ban Dân tộc, Chủ tịch nước lưu ý, do đặc điểm tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, chưa tiếp cận đầy đủ các chính sách y tế, giáo dục, an sinh xã hội... Những khó khăn này một phần do khách quan, nhưng Ủy ban Dân tộc, các Bộ, địa phương cũng cần kiểm điểm lại trách nhiệm của mình để từ đó kiến nghị sâu sắc, thiết thực hơn với Đảng và Nhà nước về chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số…

Ngày 17/3, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã làm việc với Ủy ban Dân tộc về tình hình thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc.

Sau khi nghe báo cáo của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử, ý kiến đóng góp của đại diện các Bộ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phát biểu kết luận, nhấn mạnh thành quả phát triển ở các vùng dân tộc thiểu số những năm qua đã từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, tăng cường tinh thần đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thành quả này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số, đồng thời thể hiện cố gắng của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chụp ảnh chung với lãnh đạo Ủy ban Dân tộc. Ảnh: TTXVN.

Đề cập những nhiệm vụ chính trị của Ủy ban Dân tộc, Chủ tịch nước nhấn mạnh: Công tác dân tộc phải tích cực tuyên truyền, vận động để đồng bào cảnh giác với những luận điệu, âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết, nhận thức được tác hại của các phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan. Cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể phải gắn suy nghĩ, việc làm của mình với tâm tư, nguyện vọng của đồng bào. Đồng bào các dân tộc thiểu số là bộ phận cấu thành của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, luôn một lòng đoàn kết, đóng góp tích cực trong các cuộc kháng chiến của dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.

Chủ tịch nước cũng lưu ý, do đặc điểm tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, chưa tiếp cận đầy đủ các chính sách y tế, giáo dục, an sinh xã hội...

Những khó khăn này một phần do khách quan, nhưng Ủy ban Dân tộc, các Bộ, địa phương cũng cần kiểm điểm lại trách nhiệm của mình để từ đó kiến nghị sâu sắc, thiết thực hơn với Đảng và Nhà nước về chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa 9).

Về chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Chủ tịch nước góp ý: Phải định hình hướng phát triển sản xuất trong điều kiện đặc thù của các dân tộc thiểu số. Trước mắt cần tập trung ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư đến với các vùng đồng bào dân tộc; đẩy mạnh các chương trình xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hóa...

Chủ tịch nước nhấn mạnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dạy chúng ta "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Trong bối cảnh hội nhập phát triển, CNH-HĐH đất nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng phải được phát huy hơn nữa.

PV-TTX

An Giang: Hỗ trợ đồng bào Khmer nuôi heo dưới tán rừng


Huyện Tri Tôn đang triển khai mô hình hỗ trợ heo lai có nguồn gốc từ huyện Cưmra, tỉnh Đăk Lăk cho đồng bào Khmer nuôi dưới tán rừng. Con giống heo rừng được huyện mua về cấp miễn phí cho bà con, đồng thời còn hỗ trợ làm chuòng trại. Đây là mô hình mới có hiệu quả đang được triển khai nhân rộng ở tỉnh An Giang. Theo các hộ nuôi heo lai cho biết, heo lai có nhiều ưu điểm hơn heo địa phương, tỷ lệ nạc cao, thời gian nuôi ngắn từ 2-4 tháng trọng lượng từ 8-15kg/con. Theo tính toán của bà con, hiện nay giá heo thịt là 150.000đồng/kg, con giống là 200.000đồng/kg, từ chi phí còn lãi 70%.


Lê Hoàng Vũ

Bạc Liêu dạy tin học cho đồng bào dân tộc Khmer

ND- Theo Hội Nông dân Bạc Liêu, Trung tâm Dạy nghề và Giới thiệu việc làm nông dân (thuộc Hội Nông dân tỉnh) vừa tổ chức khai giảng lớp dạy tin học căn bản cho đồng bào dân tộc Khmer tại xã Hưng Hội (nơi có hơn 70% số dân người Khmer) thuộc huyện Vĩnh Lợi. Lớp học đặt tại chùa Chót, ấp Cái Giá (Hưng Hội).

Hơn 30 học viên tham gia học tập, ngoài việc được học miễn phí, còn được phụ cấp 10 nghìn đồng/học viên/buổi học. Trong 45 ngày, các học viên sẽ được dạy cách đánh chữ Việt, chữ Khmer và chương trình Excel. Lớp học được trang bị 15 máy vi tính thực hành. Ðây là lớp dạy tin học đầu tiên cho đồng bào Khmer do Hội Nông dân tỉnh tổ chức. Sắp tới, Hội Nông dân Bạc Liêu sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này đến các xã có nhiều đồng bào Khmer trong tỉnh.
(báo Nhân Dân)

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2009

Campuchia: Thủ tướng Hun Sen bổ nhiệm thêm 10 quan chức chính phủ





(TTXVN)- Thủ tướng Campuchia Hun Sen vừa bổ nhiệm thêm 10 quan chức mới trong chính phủ, trong đó có một số người từng là đảng viên đảng đối lập.

Trong số các quan chức mới được bổ nhiệm, cựu Tư lệnh các lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia (RCAF), Tướng Ke Kim Yan, được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng phụ trách công tác phòng chống buôn bán ma túy; nguyên Phó Tổng thư ký đảng FUNCINPEC Serei Kosal giữ chức Bộ trưởng cao cấp phụ trách khối các cố vấn đặc biệt của Thủ tướng; cựu lãnh đạo đảng Nhân quyền (HRP), ông Keo Remy nhận chức Quốc vụ khanh thuộc Hội đồng Bộ trưởng; cựu nghị sĩ đảng Sam Rainsy (SRP), ông Ahmad Yahya được bổ nhiệm làm Quốc vụ khanh Bộ Công tác xã hội.

Các nhân vật từng là thành viên đảng đối lập được bổ nhiệm đợt này đã rời bỏ đảng của họ trước đây và gia nhập Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) cầm quyền từ sau cuộc bầu cử Quốc hội khóa IV năm 2008.

Người phát ngôn Chính phủ Campuchia kiêm Bộ trưởng Thông tin Khieu Khanharith cho biết Quốc hội Campuchia sẽ triệu tập một phiên họp đặc biệt vào ngày 12-3 tới để thông qua các quyết định bổ nhiệm trên.

Quốc vương Sihamoni: Campuchia tiếp tục theo đuổi đường lối hòa bình, hữu nghị với Việt Nam




(TTXVN)- Ngày 9-3, trong buổi tiếp Đại sứ nước ta tại Vương quốc Campuchia Nguyễn Chiến Thắng đến chào từ biệt kết thúc nhiệm kỳ công tác, Quốc vương Campuchia Norodom Sihamoni bày tỏ vui mừng trước việc quan hệ Việt Nam - Campuchia thời gian qua đã phát triển tốt đẹp, đồng thời cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã luôn dành cho nhân dân Campuchia, dành cho cựu Hoàng Norodom Sihanouk trước đây và cho Quốc vương ngày nay, những sự ủng hộ quý báu, hiệu quả. Quốc vương Norodom Sihamoni khẳng định tiếp tục theo đuổi đường lối hòa bình, hữu nghị với Việt Nam của cựu Hoàng Norodom Sihanouk, vun đắp cho tình đoàn kết truyền thống giữa hai nước Campuchia và Việt Nam. Quốc vương cũng nhờ Đại sứ Nguyễn Chiến Thắng chuyển lời thăm hỏi và chúc sức khỏe của ông tới Tổng Bí thư Đảng ta Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng.

Nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Campuchia, Đại sứ Nguyễn Chiến Thắng cũng đã đến chào từ biệt Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Chủ tịch Thượng viện Chea Sim và Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin.

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2009

Ở Việt Nam các quyền tự do cơ bản của người dân được đảm bảo và tôn trọng


NGƯỜI PHÁT NGÔN BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM LÊ DŨNG
TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA PHÓNG VIÊN NGÀY 26 THÁNG 2 NĂM 2009

Câu hỏi:

Đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam đối với những nhận xét về tình hình nhân quyền ở Việt Nam được nêu trong Báo cáo về tình hình nhân quyền tại một số nước trên thế giới năm 2008 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 25/2/2009?

Trả lời:

"Chúng tôi bác bỏ những nhận xét thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai trái về Việt Nam được đưa ra trong báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2008.

Cần khẳng định rõ ở Việt Nam các quyền tự do cơ bản của người dân được quy định cụ thể trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật khác và được tôn trọng trên thực tế. Người dân tham gia đầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nhân tố quan trọng đưa đến thành công của công cuộc đổi mới. Trong những năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền con người trong tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Nhà nước Việt Nam tôn trọng các quyền tự do dân chủ của người dân và luôn bảo đảm điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện các quyền của mình, đồng thời kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng các quyền đó để xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Chúng tôi cho rằng Hoa Kỳ cần có cách tiếp cận khách quan và toàn diện đối với các khác biệt giữa hai nước trong lĩnh vực nhân quyền thông qua đối thoại, lắng nghe, trên tinh thần hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, tính tới các đặc thù lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi nước, giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau".
(mofa.gov.vn)

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2009

Hợp tác Việt Nam và Cam-pu-chia



Ðoàn đại biểu cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam, do Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh dẫn đầu, thăm Cam-pu-chia từ ngày 20 đến 22-2.
Trong khuôn khổ chuyến thăm, tại buổi tiếp Ðoàn, Chủ tịch QH Cam-pu-chia Heng Som Rim và Thủ tướng Chính phủ Hun Sen khẳng định, mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa quân đội hai nước ngày càng được củng cố và nâng cao, góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế của Cam-pu-chia. Các nhà lãnh đạo Cam-pu-chia bày tỏ cảm ơn sâu sắc quân tình nguyện Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp giải phóng Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng; đề nghị quân đội hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng.
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cảm ơn về sự hợp tác giúp đỡ có hiệu quả của quân đội, nhân dân Cam-pu-chia đối với công tác tìm kiếm hài cốt quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia. Bộ trưởng đánh giá cao sự hợp tác có hiệu quả giữa quân đội hai nước, nhất là trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực; khẳng định tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác chặt chẽ theo Nghị định thư năm 2009 đã được Bộ trưởng Quốc phòng hai nước ký vừa qua.
TTXVN

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Bộ trưởng Kế hoạch Vương quốc Cam-pu-chia



Ngày 4-3, tại Trụ sở Chính phủ, trong buổi tiếp Bộ trưởng Kế hoạch Vương quốc Cam-pu-chia Chhay Than, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: Việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai Bộ Kế hoạch Việt Nam và Cam-pu-chia là hết sức cần thiết, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác trong lĩnh vực mà hai nước còn có rất nhiều tiềm năng là kinh tế, thương mại đạt nhiều hiệu quả, vì quyền lợi nhân dân hai nước.
Hoan nghênh và đánh giá cao chuyến thăm, làm việc lần đầu tại Việt Nam của Bộ trưởng Chhay Than, Thủ tướng bày tỏ sự vui mừng trước sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước ở mọi lĩnh vực cũng như kết quả cuộc hội đàm giữa ông Chhay Than và Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Võ Hồng Phúc. Trên cơ sở những thỏa thuận đã đạt được trong cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng, Bộ Kế hoạch hai nước cần đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong hoạt động trao đổi đoàn, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm công tác và giúp đỡ đào tạo nguồn nhân lực, góp phần vun đắp, phát triển mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, công tác kế hoạch cần phải liên tục đổi mới theo kịp, phù hợp nền kinh tế thị trường và tình hình thế giới, phục vụ công tác điều hành, quản lý của Chính phủ. Việt Nam sẽ tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Cam-pu-chia, nhất là hỗ trợ, giúp đỡ đào tạo nguồn nhân lực cho công tác kế hoạch.
Bộ trưởng Chhay Than vui mừng thông báo với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về kết quả tốt đẹp của buổi hội đàm giữa Đoàn đại biểu Bộ Kế hoạch Cam-pu-chia với Đoàn đại biểu Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam do Bộ trưởng Võ Hồng Phúc dẫn đầu. Thay mặt Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia, Bộ trưởng Chhay Than cảm ơn Chính phủ, nhân dân Việt Nam về những giúp đỡ quý báu mà Việt Nam đã dành cho Cam-pu-chia trong những năm qua, nhất là trong việc tái thiết đất nước sau chiến tranh, giúp đất nước Cam-pu-chia hồi sinh sau họa diệt chủng.
(ND)

Việt Nam-Campuchia hợp tác kế hoạch và đầu tư



Bản ghi nhớ hợp tác về ngành kế hoạch và đầu tư giữa Việt Nam-Campuchia năm 2009 đã được ký tại cuộc hội đàm giữa đoàn Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam do Bộ trưởng Võ Hồng Phúc làm trưởng đoàn và đoàn Bộ Kế hoạch Vương quốc Campuchia do Bộ trưởng Chhay Than làm trưởng đoàn.
Theo Bản ghi nhớ, hai bộ sẽ phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng và điều hành kế hoạch để làm tốt công tác tham mưu cho Chính phủ hai nước. Năm nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam sẽ mời các quan chức của Bộ Kế hoạch Campuchia sang Việt Nam giao lưu tại một tỉnh giáp biên giới hai nước.
Hai bên sẽ phối hợp trao đổi và học tập kinh nghiệm trên các lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành kế hoạch của hai nước; tăng cường năng lực cán bộ thông qua công tác đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn và tham quan khảo sát giữa hai Bộ. Phía Việt Nam sẽ giúp đào tạo cán bộ kế hoạch của Campuchia sang học tập và trao đổi thực tế tại Việt Nam thông qua chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn bằng nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Hoàng gia Campuchia.
Hai bên cũng sẽ hợp tác trao đổi các ấn phẩm, thông tin, tư liệu nghiệp vụ và các văn bản ban hành về nghiệp vụ kế hoạch.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, trong hợp tác giữa hai nước, lĩnh vực giáo dục và đào tạo được ưu tiên hàng đầu và đã được cả hai nước Việt Nam và Campuchia đặc biệt quan tâm.
Năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã viện trợ không hoàn lại cho Chính phủ Hoàng gia Campuchia 90 tỷ đồng, trong đó có 73 tỷ đồng dành cho đào tạo và 17 tỷ đồng dành cho các dự án tại Campuchia.
Ngoài số suất học bổng đã được thỏa thuận tại kỳ họp Ủy ban hỗn hợp liên Chính phủ lần thứ 9, Việt Nam còn cấp bổ sung thêm cho các ngành giáo dục, văn hoá, thể thao và thanh tra, nâng số học sinh Campuchia được cấp học bổng năm 2008 lên gần 1.860 người.
Quan hệ thương mại đầu tư giữa hai nước cũng tăng lên. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều năm 2008 đạt 1,7 tỷ USD, tăng 42% so với năm 2007. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia ngày càng được quan tâm và đã có 39 dự án của Việt Nam được Chính phủ Campuchia cấp giấy phép, với số vốn thực hiện hơn 211 triệu USD./.
(TTXVN/Vietnam+)